Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ - Chương 3: Ranh giới tài phán và lập chính sách

Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ


Chương 3: Ranh giới tài phán và lập chính sách



Về vấn đề thẩm quyền xét xử tòa án, Quốc hội và Hiến pháp Hoa Kỳ, cũng như Quốc hội và hiến pháp bang, đã quy định chặt chẽ những loại vụ việc mà mỗi tòa án có thể xét xử. Chương này sẽ xem xét cụ thể xem Quốc hội có thể tác động lên hành vi tư pháp như thế nào thông qua việc thay đổi quy định những loại vụ việc thẩm phán được xét xử. Đồng thời, chương này cũng sẽ thảo luận về 10 nguyên tắc thẩm tra tự hạn chế tư pháp, xuất phát từ truyền thống pháp lý, hiến pháp và luật, nhằm điều chỉnh quyết định của thẩm phán có thể xem xét lại một vụ việc hay không.

CÁC TÒA ÁN LIÊN BANG

Hệ thống tòa án liên bang được chia thành ba cấp riêng biệt: tòa sơ thẩm, tòa phúc thẩm, và Tòa án tối cao Hoa Kỳ.

Tòa án hạt Hoa Kỳ

Quốc hội đã quy định thẩm quyền xét xử của tòa án hạt liên bang. Các cơ quan xét xử này có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ hình sự và dân sự liên bang, tức là, theo luật, các vụ án đó phải được xét xử lần đầu ở các tòa án này, cho dù các bên liên quan là ai hay vấn đề đó có tầm quan trọng như thế nào.

Các vụ án hình sự. Các vụ này bắt đầu được xem xét khi chưởng lý địa phương của Hoa Kỳ có lý do tin rằng đã có sự vi phạm Bộ hình luật Hoa Kỳ (U.S. Penal Code). Sau khi lấy được bản cáo trạng (indictment) của đại bồi thẩm đoàn liên bang, chưởng lý Hoa Kỳ sẽ lập cáo trạng chống lại bị cáo tại tòa án hạt nơi chưởng lý làm việc. Các hành vi hình sự theo quy định của Quốc hội bao gồm nhiều loại hành vi khác nhau, như ăn cắp ôtô xuyên bang, nhập khẩu ma túy trái phép, ám sát tổng thống, âm mưu tước quyền công dân của một (hoặc nhiều) người, và thậm chí là sát hại chim di trú trái mùa.

Sau khi lập cáo trạng chống lại bị cáo, và nếu không có thỏa thuận khai để được giảm án (plea bargain), một thẩm phán hạt Hoa Kỳ sẽ tiến hành một phiên sơ thẩm. Tại tòa, bị cáo được hưởng tất cả các đặc quyền và miễn trách nhiệm theo Hiến chương nhân quyền (như được quyền xét xử công khai và nhanh chóng) hoặc theo luật của Quốc hội hoặc phán quyết của Tòa án tối cao (ví dụ, bồi thẩm đoàn 12 người phải đưa ra phán định nhất trí). Bị cáo có thể từ bỏ quyền được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn đồng đẳng. Một bị cáo được phán định không có tội sẽ được trả tự do và sẽ không bao giờ bị xét xử lại vì hành vi đó (quyền được bảo vệ chống nguy cơ tái hình theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười lăm). Nếu bị cáo bị buộc có tội, thẩm phán hạt sẽ quyết định hình phạt phù hợp trong khung hình phạt do Quốc hội quy định. Nếu hình phạt nằm trong khung quy định, thì không được kháng án về thời gian thụ án. Chính quyền không được kháng nghị các phán định vô tội, nhưng bị cáo bị buộc tội có thể kháng cáo nếu họ cho rằng thẩm phán hoặc bồi thẩm đã đưa ra một quyết định không đúng.

Các vụ án dân sự. Đa số khối lượng công việc của tòa án hạt là những vụ mang tính chất dân sự; tức là các vụ kiện giữa các bên tư nhân hoặc giữa Chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách từ bỏ quyền miễn trách, với một bên tư nhân. Các vụ dân sự được xét sơ thẩm ở tòa án hạt Hoa Kỳ có thể phân thành mấy loại. Thứ nhất là các vụ kiện liên quan đến diễn giải hoặc áp dụng Hiến pháp, đạo luật của Quốc hội, và hiệp ước của Hoa Kỳ. Ví dụ như một người cho rằng một hoặc nhiều quyền công dân được liên bang bảo vệ đã bị vi phạm, một người khởi kiện khẳng định là mình đã bị một đạo luật vi hiến của Quốc hội làm tổn hại, hay một nguyên đơn khẳng định là mình đã bị thiệt hại do tác động bất hợp lý của một hiệp ước. Điểm mấu chốt là, để được xét xử ở tòa sơ thẩm Hoa Kỳ, vụ việc phải có yếu tố liên bang.

Theo truyền thống, để được xét xử ở tòa sơ thẩm liên bang, vụ việc phải liên quan đến tranh chấp số tiền tối thiểu nhất định tính bằng đôla, nhưng giới hạn đó có thể được bỏ qua nếu vụ việc rơi vào một trong những nhóm phân loại chung. Ví dụ, một hành vi bị cáo buộc là vi phạm luật về quyền công dân, như Đạo luật về quyền bầu cử (1965), phải được tòa liên bang xét xử chứ không thể xét xử ở tòa án bang. Các loại vụ việc khác thuộc nhóm này là khiếu kiện về phát minh và bản quyền, hộ chiếu và thủ tục nhập quốc tịch, tranh chấp chủ quyền biển và hàng hải, và vi phạm luật bưu chính Hoa Kỳ.

Một nhóm vụ việc khác được tòa sơ thẩm Hoa Kỳ xét xử theo thẩm quyền sơ thẩm chung là những vụ việc được gọi là tranh chấp đa chủng (diversity of citizenship). Đây là các tranh chấp giữa các bên thuộc các bang khác nhau, hoặc giữa công dân Mỹ và nhà nước hoặc công dân nước ngoài.

Tòa án hạt liên bang cũng có thẩm quyền xét xử đối với các đơn kiện của những tù nhân đã bị buộc tội, nếu họ khẳng định rằng việc họ bị giam giữ (hoặc bị từ chối quyền tạm tha) là vi phạm quyền được liên bang bảo vệ. Trong đại đa số các vụ việc thuộc loại này, tù nhân yêu cầu được phát lệnh “habeas corpus” (tiếng Latinh là “bạn có quyền kiểm soát thân thể”), tức là lệnh của thẩm phán xác định một người đã bị giam giữ trái phép. Thẩm phán có thể ra lệnh cho cơ quan quản lý trại giam phải chứng minh việc giam giữ hoặc phải trả tự do cho người khởi kiện. Các tù nhân bị buộc tội tại một tòa án bang phải lập luận được rằng quyền được liên bang bảo vệ đã bị vi phạm, ví dụ, quyền được luật sư đại diện tại tòa. Nếu không, tòa án bang không có thẩm quyền xét xử. Những tù nhân liên bang có rất nhiều cơ sở kháng cáo vì tất cả các quyền và lựa chọn của họ đều thuộc phạm vi Hiến pháp Hoa Kỳ.

Cuối cùng, tòa án hạt có quyền xét xử các vụ án khác được Quốc hội quy định theo luật.

Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ

Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ không có thẩm quyền sơ thẩm, nên tất cả các vụ án hay tranh chấp được tòa cấp trung gian này thụ lý đều đã được tranh tụng ở các cơ quan xét xử khác. Tòa án này, cũng giống tòa án hạt, đều được Quốc hội thành lập, và cơ cấ u cũng như chức năng của nó được thay đổi nhiều theo thời gian.

Về cơ bản, Quốc hội trao thẩm quyền phúc thẩm cho tòa phúc thẩm vùng đối với hai nhóm vụ việc chung. Nhóm thứ nhất là các kháng cáo kháng nghị hình sự và dân sự thông thường từ tòa sơ thẩm liên bang. Đối với các vụ hình sự, người kháng cáo là bị cáo vì chính quyền không được quyền kháng nghị một phán định vô tội. Đối với các vụ dân sự, người kháng cáo thường là bên bị thua kiện ở tòa sơ thẩm, nhưng bên thắng kiện cũng có thể kháng cáo nếu họ không thỏa mãn với phán quyết của tòa cấp dưới. Nhóm thẩm quyền phúc thẩm lớn thứ hai là các kháng cáo kháng nghị từ một số cơ quan hành pháp liên bang và các bộ, cũng như các ủy ban điều tiết độc lập, như ủy ban chứng khoán và Hội đồng quan hệ lao động quốc gia.

Tòa án tối cao Hoa Kỳ

Tòa án tối cao Hoa Kỳ là tòa án liên bang duy nhất được nêu tên trong Hiến pháp, và được Hiến pháp quy định thẩm quyền chung. Mặc dù Tòa án tối cao thường được coi là một cơ quan xét xử phúc thẩm, nhưng nó cũng có một số thẩm quyền sơ thẩm chung. Có lẽ nội dung quan trọng nhất của thẩm quyền xét xử đó là một vụ kiện giữa hai hoặc nhiều bang.

Tòa án tối cao cũng có chung thẩm quyền sơ thẩm (với tòa án hạt Hoa Kỳ) trong một số vụ án nhất định do đại sứ hoặc lãnh sự nước ngoài khởi kiện, hoặc bị kiện, các vụ việc giữa Chính phủ Hoa Kỳ (liên bang) với một bang, và những vụ việc trong đó một bang này chống lại công dân của một bang khác hoặc công dân nước ngoài. Những trường hợp đó, tức là có chung thẩm quyền, thì gọi là thẩm quyền đồng thời (concurrent jurisdiction). Các vụ việc mà Tòa án tối cao có thẩm quyền sơ thẩm thường là các vụ quan trọng, nhưng chúng không tỷ lệ với khối lượng công việc. Trong những năm gần đây, chỉ chưa đầy 1% khối lượng công việc của Tòa án tối cao là các vụ xét xử theo thẩm quyền sơ thẩm.

Hiến pháp Hoa Kỳ quy định Tòa án tối cao “có thẩm quyền phúc thẩm... theo các quy định của Quốc hội”. Qua nhiều năm, Quốc hội đã thông qua nhiều văn kiện về “quy định” nêu trên, nhằm xác định các vụ việc có thể được xét xử tại cơ quan tư pháp oai nghiêm nhất của quốc gia. Các kháng cáo kháng nghị có thể được đưa lên Tòa án tối cao thông qua hai con đường chính. Thứ nhất là kháng cáo kháng nghị từ tất cả các tòa án hiến định và tòa án lãnh thổ, cũng như từ hầu hết (nhưng không phải tất cả ) các tòa án luật định liên bang. Thứ hai, là Tòa án tối cao có thể xét xử các kháng cáo kháng nghị từ các tòa án cao nhất của bang - nếu vụ việc có yếu tố quan trọng liên quan đến liên bang.

Hầu hết công việc của Tòa án tối cao là các vụ việc đã được đồng ý phát lệnh lấy lên xét xử (certiorari), và đây là lệnh tùy ý không bắt buộc. Lệnh này phải được ít nhất bốn thẩm phán ủng hộ, và có giá trị là lệnh của Tòa án tối cao gửi một tòa án cấp dưới yêu cầu tòa cấp dưới chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc để Tòa án tối cao có thể xem xét lại. Trong lịch sử, Tòa án tối cao chỉ đồng ý chấp nhận yêu cầu phát lệnh lấy lên xét xử cho một tỷ lệ số vụ việc rất ít, thường là dưới 10%, và trong những năm gần đây con số đó đã giảm xuống gần 1%.

Một phương cách khác để Tòa án tối cao thực hiện thẩm quyền phúc thẩm của mình là xác nhận. Thủ tục này cho phép tòa phúc thẩm được phép xin Tòa án tối cao cho hướng dẫn về vấn đề luật pháp. Các thẩm phán có thể chọn phương án đưa ra các hướng dẫn ràng buộc cho thẩm phán tòa phúc thẩm, hoặc họ có thể yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ lên Tòa án tối cao để xem xét lại và đưa ra phán quyết cuối cùng.

THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ VAI TRÒ LẬP CHÍNH SÁCH CỦA TÒA ÁN BANG

Thẩm quyền xét xử của 50 hệ thống tòa án bang riêng biệt ở Hoa Kỳ được thiết lập gần như giống với thẩm quyền của hệ thống tòa án quốc gia. Mỗi bang có một hiến pháp quy định thẩm quyền và quyền ra quyết định của các thẩm phán sơ thẩm và phúc thẩm của nó. Tương tự, cơ quan lập pháp bang thông qua các đạo luật chi tiết hóa quyền cụ thể và đặc quyền của các thẩm phán, và quyền cũng như nghĩa vụ của những người khởi kiện ở tòa án bang. Do hiến pháp và thể chế luật ở mỗi bang đều khác nhau, nên thẩm quyền của từng tòa án bang cũng khác nhau giữa các bang.

Các tòa án bang có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lập chính sách ở Hoa Kỳ. Hơn 99% khối lượng công việc tư pháp ở Hoa Kỳ là các vụ việc ở cấp bang, và 95% số thẩm phán ở Hoa Kỳ làm việc ở cấp bang. Hơn nữa, quyết định của bồi thẩm bang thường tác động rất lớn đến chính sách công. Ví dụ, trong thập niên 1970, có một số vụ kiện được đưa ra trước tòa án liên bang thách thức tính hợp hiến của chi tiêu bang bất bình đẳng cho giáo dục phổ thông. (Do các hạt giáo dục nghèo không thể huy động nhiều tiền như các hạt giáo dục giàu có). Những người khởi kiện cho rằng học sinh ở các hạt nghèo là nạn nhân của việc phân biệt đối xử trái pháp luật, vi phạm quyền được bảo vệ công bằng theo Hiến pháp Hoa Kỳ. Nhưng Tòa án tối cao cho rằng luận điểm đó không đúng trong phán quyết được đưa ra theo tỷ lệ 5 : 4 trong vụ án Hạt giáo dục độc lập San Antonio kiện Rodriguez năm 1973. Nhưng vấn đề chưa dừng ở đó. Nhiều đơn kiện đã được đưa ra ở nhiều bang khẳng định vấn đề cơ hội giáo dục bất bình đẳng là vi phạm nhiều điều khoản trong hiến pháp bang. Từ sau vụ Rodriguez, đã có 28 vụ kiện tương tự ở 24 bang. Trong 14 vụ, Tòa án tối cao của bang đã vô hiệu hóa phương pháp tài trợ giáo dục của bang, và yêu cầu phân phối lại khoản ngân sách hàng tỷ đôla.

THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ CHÍNH TRỊ LẬP PHÁP

Một số thẩm phán và học giả tư pháp cho rằng Hiến pháp Hoa Kỳ và các văn kiện tương ứng của bang đã trao thẩm quyền cố hữu nhất định cho ngành tư pháp trong một số lĩnh vực mấu chốt, độc lập khỏi ý chí của ngành lập pháp. Tuy nhiên, ranh giới thẩm quyền xét xử của các tòa án Mỹ vẫn là một sản phẩm của quyết định lập pháp, những quyết định thường chịu ảnh hưởng chính trị.

Quốc hội có thể thúc đẩy một đường lối nhất định thông qua việc trao quyền cho tòa án được xét xử trong một lĩnh vực chính sách công vốn trước đó là khu vực cấm đối với ngành tư pháp. Ví dụ, khi thông qua Đạo luật quyền công dân năm 1968, Quốc hội đã trao cho các thẩm phán quyền được trừng phạt các cá nhân nếu họ dám đụng vào “một người vì lý do chủng tộc, màu da, tôn giáo hoặc xuất xứ quốc gia của họ, và vì họ đã di chuyển vì lý do... thương mại xuyên bang”. Trước năm 1968, tòa án không có thẩm quyền xét xử các vụ phát sinh từ việc can thiệp của một người đối với quyền được đi lại của một người khác. Tương tự, Quốc hội có thể ngăn cản một phong trào xã hội nhất định bằng cách thông qua luật làm cho những người ủng hộ phong trào đó gần như không thể thắng kiện ở tòa án.

Thẩm quyền xét xử của tòa án bang, cũng giống như thẩm quyền của tòa liên bang, bị khống chế bởi ý chí của cơ quan lập pháp bang, và là sản phẩm chính trị của cơ quan lập pháp bang.

TỰ HẠN CHẾ TƯ PHÁP

Vấn đề hành vi thẩm phán không được làm, hoặc không nên làm, là một vấn đề không liên quan nhiều đến thẩm quyền xét xử, mà liên quan đến vấn đề địa vị người xét xử - tức là vấn đề các thẩm phán trong hệ thống cần phải xét xử hoặc từ chối xét xử một số loại tranh chấp nhất định. Mười nguyên tắc tự hạn chế tư pháp dưới đây là những yếu tố cần được kiểm tra đối chiếu và hạn chế quyền lực của thẩm phán Mỹ. Những tập quán này xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau – như Hiến pháp Hoa Kỳ và hiến pháp các bang, luật của Quốc hội và cơ quan lập pháp bang, và thông luật. Một số nguyên tắc được áp dụng nhiều cho tòa phúc thẩm hơn là tòa sơ thẩm, hầu hết các nguyên tắc đều được áp dụng cho cả hệ thống tư pháp bang lẫn liên bang.

Phải tồn tại một tranh cãi rõ ràng

Hiến pháp Hoa Kỳ quy định: “Quyền lực tư pháp căn cứ vào Hiến pháp này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các vụ việc trên phương diện luật pháp và công lý, các điều luật của Hoa Kỳ, các hiệp ước đã hoặc sẽ ký dưới thẩm quyền của Chính phủ” (Điều III, Mục 2). Từ mấu chốt trong câu này là từ “các vụ việc”. Từ năm 1789, các tòa án liên bang đã chọn cách giải thích thuật ngữ này theo nghĩa đen: Phải có một tranh cãi thực tế giữa các bên đối nghịch hợp pháp, đáp ứng tất cả các tiêu chí kỹ thuật để có thể cấu thành một vụ kiện. Tranh chấp phải liên quan đến việc bảo vệ một quyền có ý nghĩa và không tầm thường, hoặc nhằm ngăn cản hoặc uốn nắn một vấn đề sai lệch ảnh hưởng trực tiếp đến các bên tham gia vụ kiện. Nguyên tắc chung này có ba hệ quả.

Hệ quả thứ nhất là tòa liên bang không được đưa ra ý kiến cố vấn, hoặc các phán quyết về các tình huống mang tính giả định, hoặc chưa gây ra sự va chạm giữa các bên đối nghịch. Tranh chấp phải là thực tế và hiện hữu trước khi tòa đồng ý chấp nhận xét xử.

Hệ quả thứ hai là các bên tham gia vụ kiện phải có địa vị phù hợp. Hệ quả này giải quyết vấn đề ai là người được đưa vụ kiện ra tòa. Người mang vụ kiện ra tòa đã phải chịu (hoặc sẽ phải chịu ngay lập tức) một thiệt hại trực tiếp và đáng kể. Theo nguyên tắc chung, một bị đơn không thể đưa ra một khiếu kiện nhân danh người khác (trừ trường hợp bố mẹ của người chưa đủ tuổi hoặc trong các loại vụ việc đặc biệt được gọi là hành động pháp lý tập thể). Ngoài ra, thiệt hại theo luận điểm của bên nguyên phải được cá nhân hóa, và là thiệt hại trực tiếp, chứ không phải là một phần của một khiếu nại chung nào đó.

Hệ quả thứ ba là tòa án thường không xét xử một vụ việc đã biến thành giả định (moot) – tức là khi các khách thể hoặc địa vị của các bên tham gia đã bị thay đổi lớn tính từ thời điểm đầu tiên vụ kiện được lập hồ sơ đến khi nó được đưa ra trước các thẩm phán. Nếu người khởi kiện chết hoặc không còn là một bên xung đột, thì hầu hết cơ quan xét xử đều coi đó là một vụ việc mang tính giả định. Tuy nhiên, đôi lúc thẩm phán có thể quyết định họ cần phải xét xử vụ việc, cho dù tình trạng khách quan và địa vị các bên đã có dấu hiệu bị thay đổi rất nhiều. Điển hình là các vụ việc trong đó một người đã thách thức tính hợp pháp của việc một bang từ chối cho phép phá thai hoặc cho phép tắt hệ thống hỗ trợ sự sống của những người bệnh vô phương cứu chữa. (Trong trường hợp đó, đến khi vụ việc được đưa ra tòa phúc thẩm, thì người mẹ đã sinh con hoặc người hấp hối có thể đã chết). Trong các vụ việc này, thẩm phán tin rằng vấn đề quan trọng đến mức phải được tòa án giải quyết. Nếu tuyên bố các vụ việc đó là giả định, thì về mặt thực tế là chúng không được một cơ quan phúc thẩm xét xử kịp thời.

Mặc dù thẩm phán liên bang không được phán quyết các vấn đề mang tính trừu tượng, giả định, song nhiều tòa án bang được quyền xét xử các vấn đề đó dưới nhiều hình thức. Tòa luật định liên bang cũng có thể đưa ra ý kiến tư vấn. Ngoài ra, các thẩm phán Mỹ được quyền đưa ra các phán quyết mang tính giải thích, trong đó xác định quyền của các bên theo một đạo luật, một di chúc hoặc một hợp đồng. Phán quyết đó không có ý nghĩa như một lệnh bắt buộc thực hiện. Các tòa án liên bang có quyền được thực hiện năng lực của mình theo Đạo luật phán quyết giải thích liên bang năm 1934, và ba phần tư số bang cho phép các tòa án của mình được thực hiện quyền này. Mặc dù có sự khác nhau giữa một tranh chấp trừu tượng mà tòa phải tránh, với một tình huống có thể đưa ra phán quyết giải thích, nhưng trên thực tế, đường ranh giới giữa hai vấn đề này rất khó phân biệt.

Luận điểm phải cụ thể

Một hạn chế khác khống chế ngành tư pháp liên bang là các thẩm phán sẽ không xét xử các vụ việc theo tình, nếu đầu tiên người đệ đơn không viện dẫn được một nội dung cụ thể của Hiến pháp làm cơ sở cho luận điểm của mình. Chẳng hạn, Tu chính án Hiến pháp thứ nhất cấm chính quyền thông qua các luật “đề cao cơ sở tôn giáo”. Năm 1989, bang New York lập ra một hạt giáo dục đặc biệt chỉ phục vụ lợi ích của một nhóm Do thái giáo dòng Hasids có gốc Đông Âu gọi là Satmar Hasids; đây là một tổ chức từ chối hòa nhập vào xã hội hiện đại. Hầu hết trẻ em học ở các trường giáo xứ ở làng Kiryas Joel, nhưng các trường tư này không được trang bị để phục vụ các học sinh khuyết tật và chậm phát triển, còn những người thuộc nhóm Satmars lại cho rằng nếu những trẻ em như thế trong cộng đồng của họ bị buộc phải học trường công, thì chúng sẽ bị thương tổn. Để giải quyết tình trạng này, cơ quan lập pháp bang đã lập ra một hạt giáo dục đặc biệt, chỉ bao gồm một trường phụ c vụ những trẻ em khuyết tật của cộng đồng Do thái giáo dòng Hasids. Quyết định này đã bị một hiệp hội đại diện cho các hội đồng giáo dục bang New York lên án. Tháng Sáu 1994, Tòa án tối cao Hoa Kỳ ra phán quyết rằng việc thành lập hạt giáo dục một trường học thực tế đã trao quyền chính trị cho nhóm Do thái giáo chính thống, và vì vậy đã vi phạm quy định cấm của Tu chính án Hiến pháp thứ nhất đối với “cơ sở tôn giáo” do chính quyền thiết lập. Cho dù mọi người có thể thống nhất hay không thống nhất rằng luật của New York hợp hiến, nhưng nếu có thì cũng rất ít người có thể nghi ngờ khả năng hiệp hội hội đồng giáo dục có thể đáp ứng các tiêu chí để yêu cầu tư pháp xem xét lại: Hiến pháp quy định rõ ràng cấm chính quyền trao quyền chính trị cho một thực thể tôn giáo cụ thể. Ở đây chính quyền đã thừa nhận là nó đã thông qua một đạo luật phục vụ lợi ích chuyên biệt của một cộng đồng tôn giáo đơn lẻ.

Tuy nhiên, nếu một người đi đến tòa án và cho rằng một đạo luật hoặc một hành động hành pháp nào đó “vi phạm tinh thần của hiến chương” hoặc “xâm phạm giá trị của các nhà lập quốc”, thì chắc chắn sẽ bị thẩm phán từ chối xem xét. Nhưng nếu các thẩm phán được tự do gán cho các vấn đề chung mang tính mù mờ này một ý nghĩa rõ ràng và thực chất, thì đâu cần phải kiểm tra xem họ được làm gì. Trong thực tế, nguyên tắc này không đơn giản như bề ngoài của nó, vì Hiến pháp có nhiều quy định mở cho nhiều cách giải thích khác nhau, đủ chỗ cho thẩm phán liên bang có thể biến tấu và lập chính sách.

Người hưởng lợi không được kiện

Mảng thứ ba trong quy định tự hạn chế tư pháp là một người đệ đơn đã được hưởng lợi từ một đạo luật hoặc một hành động hành pháp thì sau đó không được kiện luật đó. Ví dụ, giả sử một nông dân từ lâu đã tham gia một chương trình, trong đó anh ta đồng ý không sản xuất một phần đất của mình, và định kỳ nhận một khoản hỗ trợ từ chính quyền liên bang. Sau nhiều năm tham gia, người nông dân nhận thấy người hàng xóm nhận tiền thường xuyên vì để hoang toàn bộ đất của mình. Người nông dân thấy người hàng xóm không làm gì mà vẫn có tiền, nên đặt vấn đề về tính hợp hiến của chương trình đó. Người nông dân khởi kiện tính hợp pháp của chương trình ở tòa án hạt liên bang. Ngay khi thẩm phán biết được người nông dân đó đã là một thành viên của chương trình và được hưởng lợi tài chính từ chương trình đó, vụ kiện đã bị bác bỏ: Một người không thể hưởng lợi từ một nỗ lực của chính quyền hoặc một hành động hành pháp cụ thể, rồi sau đó quay lại tấn công nó tại một tòa án.

Tòa phúc thẩm phán quyết theo yếu tố pháp lý, chứ không phải yếu tố khách quan

Có một định đề trong thông lệ các tòa phúc thẩm bang và liên bang là các tòa án này nói chung không xét xử nếu cơ sở kháng cáo kháng nghị là thẩm phán hoặc bồi thẩm sơ thẩm đã tập hợp sai, hoặc xác định sai các yếu tố khách quan cơ bản cấu thành vụ việc. Không phải là thẩm phán và bồi thẩm sơ thẩm luôn xác định khách quan hoàn hảo. Thay vào đó, người ta tin rằng họ gần gũi hơn với các bên liên quan thực tế và bằng chứng vật chất của vụ việc, nên họ có thể đánh giá khách quan tốt hơn các cơ quan xét xử phúc thẩm, vốn chỉ được đọc tài liệu vụ án nhiều tháng hoặc nhiều năm sau khi phiên sơ thẩm xảy ra. Tuy nhiên, các vấn đề pháp lý, tức là áp dụng luật nào cho thực tế khách quan của vụ việc, và đánh giá khách quan đó như thế nào theo luật hiện hành, thì cần được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

Tòa án tối cao không bị ràng buộc (về mặt kỹ thuật) bởi các tiền lệ

Nếu Tòa án tối cao được tự do đảo ngược hoặc phá vỡ các tiền lệ quá khứ và mang tính khống chế khi quyết định một vụ việc, thì dường như đây là một luận điểm ủng hộ cho xu hướng cấp tiến tư pháp – chứ không phải tự hạn chế. Tuy nhiên, tập quán này là một trong những nguyên tắc tự hạn chế. Nếu Tòa án tối cao bị ràng buộc không lối thoát bởi sự sai khiến của các phán quyết trước, thì nó sẽ rất kém linh hoạt. Nhờ việc tự cho phép mình thỉnh thoảng được tự do đảo ngược một quyết định quá khứ hoặc bỏ qua một tiền lệ đã trở thành quy định khống chế, Tòa án tối cao đã thiết lập được một lối thoát an toàn để có thể rút lui nếu cần. Khi sự suy xét sáng suốt ra lệnh cho Tòa án thay đổi đường hướng, hoặc duy trì tư tưởng cởi mở, thì nguyên tắc tự hạn chế này sẽ được sử dụng.

Các giải pháp khắc phục khác phải được xem xét cho hết

Một nguyên tắc tự hạn chế nữa thường làm cho các nguyên đơn nổi khùng, thất vọng là một yếu tố cực kỳ quan trọng để có thể kiểm soát công lý một cách trật tự: Các tòa án ở Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận một vụ việc nếu chưa tính hết khả năng thực hiện các giải pháp khắc phục khác, kể cả pháp lý lẫn hành chính. Theo nghĩa giản đơn, chủ thuyết này có nghĩa là một người phải leo từng nấc thang của quá trình khiếu kiện pháp lý. Các vụ án liên bang đầu tiên phải được xét xử ở tòa sơ thẩm Hoa Kỳ, tiếp đó được xem xét lại tại một cơ quan xét xử phúc thẩm, và cuối cùng mới được xét xử tại Tòa án tối cao. Thủ tục thứ tự diễn biến này phải được tuân thủ cho dù nội dung vụ việc hay người đệ đơn có quan trọng đến đâu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, trình tự phúc thẩm có thể được rút ngắn.

Hết khả năng thực hiện các giải pháp khắ c phục khác có nghĩa là hết khả năng thực hiện giải pháp hành chính hay phải tuân thủ nguyên tắc cấu trúc tư pháp ba cấp. Giải pháp hành chính có thể nằm dưới dạng khiếu nại lên một viên chức hành chính, xét xử tại một hội đồng hoặc ủy ban, hoặc được cơ quan lập pháp xem xét chính thức một vấn đề nào đó.

Tòa án không xét xử các “yếu tố chính trị”

Đối với thẩm phán Hoa Kỳ, hai ngành hành pháp và lập pháp của chính quyền là những ngành mang tính chính trị vì nó được dân bầu lên để lập chính sách công. Còn tư pháp thì ngược lại, các Nhà lập quốc không thiết chế ngành này thành một công cụ để thể hiện ý chí chung, và do đó không mang tính chính trị. Theo hướng luận giải này thì các yếu tố chính trị cần được giải quyết bởi một trong hai ngành kia của chính quyền.

Ví dụ, khi bang Oregon trao quyền cho công dân được bỏ phiếu thông qua các sáng kiến và các cuộc trưng cầu dân ý phổ thông vào khoảng năm 1900, Công ty điện thoại và điện tín các bang Thái Bình Dương đã phản đối. (Công ty này sợ rằng các cử tri sẽ bỏ qua các văn kiện lập pháp hỗ trợ kinh doanh và thông qua các đạo luật hạn chế đơn giá và lợi nhuận của mình). Công ty cho rằng Điều IV, Mục 4 của Hiến pháp bảo vệ “Hình thái Chính phủ Cộng hòa” ở mỗi bang – thuật ngữ được cho là đã quy định rằng, chỉ có các đại diện của dân mới được ban hành luật, chứ không phải trực tiếp người dân. Tòa án tối cao từ chối đưa ra phán quyết về sự phải trái của vụ việc, Tòa tuyên bố vấn đề này mang yếu tố chính trị. Cơ sở phán quyết của Tòa là Điều IV chủ yếu quy định nhiệm vụ của Quốc hội, và nó cho rằng các Nhà lập quốc muốn Quốc hội, chứ không phải tòa án, được quyền giám sát hình thái chính quyền ở các bang.

Trong những thập niên gần đây, đã xuất hiện một xung đột về việc nên coi việc điều chỉnh ranh giới hạt lập pháp là một vấn đề chính trị hay phi chính trị. Trước năm 1962, đa số thành viên Tòa án tối cao từ chối phán quyết về tính hợp hiến của các hạt lập pháp có số dân không đều, vì cho rằng đây không phải là vấn đề “có thể xét xử”, và Tòa án không dám xâm phạm cái mà Thẩm phán Felix Frankfurter gọi là “bụi rậm chính trị”. Theo lối tư duy truyền thống của Tòa án tối cao, thì các Nhà lập quốc muốn các cơ quan lập pháp tự phân chia ranh giới hạt – có lẽ là cùng với ý kiến của cử tri. Tuy nhiên, với phán quyết của Tòa án tối cao trong vụ Baker kiện Carr (1962), đa số đã thay đổi quan điểm đó. Từ thời điểm đó, Tòa án tối cao đã quyết định nhiều vụ việc theo hướng điều luật bảo vệ công bằng theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn, yêu cầu các hạt lập pháp phải có số dân tương đương, và hơn nữa, các tòa án phải xem xem quy định đó đã được thực hiện hay chưa.

Trách nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc về người đệ đơn

Các luật gia của quốc gia nói chung đều nhất trí là người nào khiếu kiện tính hợp hiến của một đạo luật phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ. Do đó, nếu một người muốn tấn công một đạo luật nào đó, thì họ phải làm rất nhiều việc chứ không chỉ đơn thuần nêu được là đạo luật đó “có vấn đề hay đáng nghi ngờ về tính hợp hiến”; người đệ đơn phải thuyết phục tòa án rằng chứng cứ chống lại đạo luật đó là rõ ràng và phổ biến.

Chỉ có một ngoại lệ đối với nguyên tắc này là trong lĩnh vực quyền công dân và tự do công dân. Một số luật gia ủng hộ mạnh mẽ quyền tự do công dân từ lâu đã cho rằng nếu chính quyền cố gắng hạn chế các quyền tự do con người cơ bản, thì trách nhiệm đưa ra chứng cứ phải chuyển sang cho chính quyền. Và trong một số lĩnh vực cụ thể của ngành luật quyền công dân, triết lý này đã trở nên phổ biến. Ví dụ, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết trong nhiều vụ rằng các đạo luật đối xử con người khác biệt theo chủng tộc hay giới tính sẽ tự động bị “soi xét đặc biệt” (special scrutity). Điều này có nghĩa là trách nhiệm chứng cứ chuyển sang chính quyền, buộc chính quyền phải chứng minh là có một nhu cầu bắt buộc và có tầm quan trọng vượt trội trong việc phân biệt con người theo xuất xứ dân tộc hoặc giới tính. Ví dụ, từ lâu chính quyền đã lý luận (và đã thành công) rằng cần có một số hạn chế lớn đối với phụ nữ trong quân lực để tránh cho họ không phải thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu trực tiếp.

Chỉ bác bỏ luật trên cơ sở hẹp nhất

Đôi khi trong một phiên xét xử, một thẩm phán nhận thấy rõ ràng một văn kiện lập pháp hay một hành động hành pháp đã vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này thì các luật gia vẫn hành động rất thận trọng. Đầu tiên, thẩm phán có thể chọn phương án vô hiệu hóa một hành động hành pháp trên cơ sở luật định, chứ chưa phải hiến định. Vô hiệu hóa luật định có nghĩa là một thẩm phán bác bỏ một hành động hành pháp vì viên chức hành pháp đã hành động vượt quá thẩm quyền được luật cho phép. Phán quyết đó có ý nghĩa bảo vệ luật nhưng vẫn vô hiệu hóa được hành động sai trái của viên chức hành pháp. Thứ hai, là các thẩm phán có thể (nếu có khả năng) chỉ vô hiệu hóa một phần của đạo luật mà họ cho là có lỗi về mặt hiến định, chứ không bác bỏ toàn bộ đạo luật.

Không phán quyết về “sự sáng suốt” của cơ quan lập pháp

Nếu được tuân thủ nghiêm khắc, nguyên tắc này có nghĩa là cơ sở duy nhất để tuyên bố một đạo luật hoặc một hành vi hành pháp vi hiến là cho rằng nó vi phạm từng chữ của Hiến pháp. Các đạo luật không xâm phạm Hiến pháp chỉ vì nó không công bằng, lãng phí tài chính, hoặc cấu thành một chính sách công tồi tệ. Nếu thực sự xem xét cẩn thận, thì điều này có nghĩa là thẩm phán và đại thẩm phán không được tự do vận dụng các quan niệm cá nhân về đúng sai, hoặc quan niệm chính sách công tốt xấu khi xem xét tính hợp hiến của văn kiện lập pháp.

Một hệ quả phụ khác của nguyên tắc này là có thể một đạo luật được thông qua và được mọi người nhất trí là một đạo luật tốt và khôn ngoan, nhưng vẫn bị coi là vi hiến; ngược lại, một đạo luật có thể hợp pháp hóa hành vi của quan chức hành pháp bị mọi người coi là tồi tệ và nguy hiểm, nhưng vẫn không vi phạm Hiến pháp.

Nguyên tắc không phán quyết về “tính sáng suốt” của các đạo luật là một nguyên tắc khó tuân thủ trong thực tiễn. Đó là vì Hiến pháp là một tài liệu khá ngắn gọn, không đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống công và chứa một số câu chữ và lời khuyên răn có thể có nhiều cách lý giải khác nhau. Ví dụ, Hiến pháp quy định Quốc hội được điều chỉnh thương mại xuyên bang. Nhưng chính xác thế nào là thương mại, và phạm vi của nó rộng đến mức nào khi chưa thêm chữ “xuyên bang”? Thẩm phán cũng là con người, và họ có nhiều cách trả lời khác nhau đối với câu hỏi này. Hiến pháp bảo vệ một người bị truy tố về một tội phạm nào đó có quyền được luật sư bào chữa. Nhưng quyền này có được duy trì khi người đó kháng cáo yêu cầu một phán định có tội hay không, nếu có thì bao nhiêu kháng cáo? Những người giải thích luật chặt chẽ và những người giải thích luật lỏng lẻo đã đưa ra những câu trả lời khác nhau.

Tóm lại, mặc dù việ c đưa giá trị cá nhân của thẩm phán vào trong cách diễn giải nhiều phần của Hiến pháp là không thể trá nh khỏi, nhưng hầu như các luật gia đều tán thà nh nguyên tắc chung là các đạo luật chỉ có thể bị vô hiệu hóa nếu nó vi phạm Hiến pháp, chứ không phải theo ý thích cá nhân của thẩm phán.

Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ : Chương 2

Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ


Chương 2: Lịch sử và tổ chức của các hệ thống tư pháp bang







Trước khi có Hiến chương liên minh và trước khi soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, các khu vực thuộc địa, với tư cách là các thực thể có chủ quyền, đã có hiến pháp riêng bằng văn bản. Do đó, hệ thống tòa án bang đã bắt đầu phát triển từ thời kỳ thuộc địa đến nay.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TÒA ÁN BANG

Về vấn đề tổ chức tòa án, không có bang nào giống hệt nhau. Mỗi bang được tự do áp dụng cơ chế tổ chức riêng, tùy ý thành lập bao nhiêu tòa án, đặt tên như thế nào và thiết lập phạm vi tài phán như thế nào thích hợp nhất. Do đó, tổ chức tòa án bang không giống một hệ thống ba cấp rõ ràng như ở cấp liên bang. Ví dụ, trong hệ thống liên bang, tòa sơ thẩm được gọi là tòa án hạt và tòa phúc thẩm được gọi là tòa lưu động (tòa phúc thẩm vùng). Trong khi đó, tại hơn một chục bang, tòa lưu động là tòa sơ thẩm. Một số bang khác sử dụng khái niệm tòa cấp trên (superior court) để chỉ các tòa sơ thẩm lớn. Có lẽ hiện tượng ngạc nhiên nhất là ở Bang New York, nơi mà các tòa sơ thẩm lớn được gọi là Tòa án tối cao.

Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về tổ chức các tòa án bang, nhưng tựu chung đây là một hệ thống rất quan trọng. Do khối lượng luật bang lớn hơn rất nhiều so với các đạo luật liên bang, bao trùm hầu hết mọi thứ từ quan hệ cá nhân cơ bản đến các chính sách công quan trọng nhất của bang, nên phạm vi công việc của tòa án bang là rất lớn, và số lượng vụ án được giải quyết hàng năm ở tòa án bang lớn hơn nhiều so với số vụ của tòa liên bang.

Thời kỳ thuộc địa

Trong thời kỳ thuộc địa, quyền lực chính trị tập trung trong tay thống đốc do Hoàng đế nước Anh chỉ định. Do các thống đốc thực hiện toàn bộ các chức năng hành pháp, lập pháp và tư pháp, nên không cần đến một hệ thống tòa án quá chi tiết.

Cấp tư pháp thuộc địa nhỏ nhất là các thẩm phán địa phương được gọi là thẩm phán hòa giải hoặc thẩm phán tiểu hình. Các thẩm phán này được thống đốc khu vực thuộc địa bổ nhiệm. Cấp tiếp theo của hệ thống là các tòa án tỉnh; đây là các tòa sơ thẩm chung của các khu vực thuộc địa. Các kháng cáo kháng nghị từ tất cả các tòa án được đưa lên cấp cao nhất, đó là thống đốc và hội đồng thống đốc. Đại bồi thẩm và tiểu bồi thẩm cũng xuất hiện trong thời kỳ này, và hiện nay vẫn là một đặc điểm nổi bật của hệ thống tư pháp bang.

Đến đầu thế kỷ XVIII, nghề luật bắt đầu thay đổi. Luật sư được đào tạo trong các Hội quán luật của Anh, và số lượng đã trở nên đông đảo, do đó, các thủ tục tòa án thuộc địa đã dần được thay đổi bằng hệ thống thông luật tinh vi của Anh.

Các tòa án bang thời kỳ đầu

Sau Cách mạng Mỹ (1775–1783), quyền lực chính quyền không chỉ bị tiếp quản bởi các thể chế lập pháp, mà đồng thời còn bị giảm sút nghiêm trọng. Các nhà thực dân cũ không muốn hệ thống tư pháp phát triển độc lập và lớn mạnh; họ coi thường luật sư và thông luật. Cơ quan lập pháp bang giám sát hoạt động tòa án một cách cẩn trọng và trong một số trường hợp đã loại bỏ các thẩm phán và xóa bỏ một số tòa án vì các quyết định hơi bất thường.

Sự thiếu tin tưởng vào hệ thống tư pháp ngày càng gia tăng khi các tòa án tuyên bố các hành động lập pháp là vi hiến. Xung đột giữa lập pháp và thẩm phán ngày càng phổ biến và thường nảy sinh từ mâu thuẫn lợi ích. Có vẻ như các nhà lập pháp thích các chính sách có lợi cho con nợ hơn, trong khi các tòa án thường thể hiện quan điểm của chủ nợ. Sự khác biệt này là một yếu tố quan trọng, vì “do xung đột quyền lực lập pháp và tư pháp... nên các tòa án dần dần trở thành một tổ chức chính trị độc lập”, như David W. Neubanuer đã viết trong cuốn Tòa án Mỹ và Hệ thống pháp luật hình sự (America’s Courts and the Criminal Justice System).

Các tòa án bang thời hiện đại

Kể từ cuộc Nội chiến (1861–1865) đến đầu thế kỷ XX, các tòa án bang gặp phải vấn đề khác. Quá trình công nghiệp hóa và phát triển nhanh chóng các khu vực đô thị đẻ ra nhiều loại tranh chấp pháp lý mới, và nảy sinh các vụ xét xử dài hơn và phức tạp hơn. Do các hệ thống tòa án bang phần lớn được thiết kế để giải quyết các vấn đề ở khu vực nông thôn, ruộng đất, nên chúng bị khủng hoảng vì án tồn đọng quá nhiều trong quá trình đấu tranh điều chỉnh.

Có một giải pháp là lập các tòa án mới để giải quyết số lượng án tăng lên. Thông thường, các tòa án được xếp chồng lên nhau. Một giải pháp khác là bổ sung thẩm quyền xét xử cho các tòa án mới vượt quá khu vực địa lý cụ thể. Ngoài ra còn có các giải pháp khác là lập tòa chuyên trách để giải quyết các vụ thuộc một lĩnh vực nhất định. Ví dụ, ngày càng có nhiều các tòa khiếu nại nhỏ, tòa vị thành niên và tòa quan hệ gia đình.

Việc mở rộng các tòa án bang và địa phương một cách không có kế hoạch để đáp ứng những nhu cầu cụ thể đã dẫn đến tình trạng được nhiều người gọi là xé lẻ. Tuy nhiên, việc có nhiều loại tòa sơ thẩm mới chỉ là một khía cạnh của sự xé lẻ. Nhiều tòa án có thẩm quyền xét xử rất hạn hẹp. Ngoài ra, thẩm quyền xét xử của nhiều tòa án thường bị trùng lắp.

Đầu thế kỷ XX, mọi người bắt đầu lo ngại về sự nhỏ lẻ của hệ thống tòa án bang. Các chương trình cải cách để giải quyết vấn đề này được gọi chung là phong trào thống nhất tòa án. Học giả luật nổi tiếng đầu tiên lên tiếng ủng hộ thống nhất tòa án là Roscoe Pound, hiệu trưởng Trường luật Harvard. Pound và những người khác đã kêu gọi thống nhất các tòa sơ thẩm thành một hoặc hai nhóm tòa án, một nhóm xét xử các vụ lớn và một nhóm xét xử các vụ nhỏ lẻ.

Quá trình thống nhất tòa án gặp phải rất nhiều phản đối. Nhiều luật sư sơ thẩm đã gần như hàng ngày xuất hiện ở tòa và đã quá quen với tổ chức tòa án hiện tại, nên họ phản đối sự thay đổi. Các thẩm phán và nhân viên tòa án đôi lúc cũng phản đối cải cách. Phản đối của họ thường xuất phát từ việc sợ bị chuyển đến tòa án mới, phải học thủ tục mới, hoặc phải giải quyết các vụ việc nằm ngoài chuyên môn của mình. Do đó, phong trào thống nhất tòa án không được thành công như nhiều người mong đợi. Nhưng những người đề xướng cải cách tòa án cũng đã giành thắng lợi ở một số bang.

TỔ CHỨC TÒA ÁN BANG

Một số bang đã đi theo hướng tổ chức một hệ thống tòa án thống nhất, nhưng các bang khác vẫn có nhiều tòa án rất phức tạp và rắc rối, với thẩm quyền xét xử trùng lắp. Các tòa án bang có thể được chia thành bốn cấp tổng hợp: tòa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế, tòa sơ thẩm với thẩm quyền chung, tòa phúc thẩm trung gian và tòa chung thẩm.

Tòa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế

Hàng năm, các tòa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế giải quyết phần lớn các vụ kiện tụng ở Hoa Kỳ, và chiếm đến 90% số lượng tòa án. Chúng được đặt nhiều tên khác nhau: tòa hòa giải (justice of peace court), tòa tiểu hình (magistrate courts), tòa án cộng đồng (municipal courts), tòa thành phố (city courts), tòa án tỉnh (county courts), tòa án vị thành niên (juvenile courts), tòa án quan hệ gia đình (domestic relations courts), và tòa thủ phủ (metropolitan courts).

Thẩm quyền xét xử của các tòa án này bị giới hạn trong các vụ án nhỏ. Ví dụ, đối với các vấn đề hình sự, tòa án bang giải quyết ba cấp vi phạm: vi cảnh (infractions), tội ít nghiêm trọng (misdemeanors) và tội nghiêm trọng (felonies). Tòa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế chỉ giải quyết các vụ vi cảnh và tội ít nghiêm trọng. Nó chỉ được áp đặt hình phạt hạn chế (thường không quá 1.000 USD), và hình phạt tù với thời hạn thường không quá một năm. Trong các vụ dân sự, các tòa án này thường chỉ giới hạn trong các vụ tranh chấp lên đến một số tiền nhất định, khoảng 500 USD. Ngoài ra, các tòa án này thường bị giới hạn trong một số loại vấn đề như vi phạm luật giao thông, quan hệ gia đình, hay như các vụ liên quan đến vị thà nh niên.

Một điểm khác biệt nữa giữa tòa sơ thẩm có thẩm quyền hạn chế với tòa thẩm quyền chung là, trong nhiều trường hợp, các tòa thẩm quyền hạn chế không phải lập bản ghi. Do quá trình tố tụng không được ghi chép, nên các kháng cáo kháng nghị đối với phán quyết của tòa thẩm quyền hạn chế được đưa lên tòa sơ thẩm có thẩm quyền chung, và được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm “de novo” (sơ thẩm lại). Còn một điểm khác biệt nữa là các thẩm phán chủ tọa tòa sơ thẩm hạn chế không cần phải được đào tạo luật bài bản.

Nhiều tòa án thuộc lọa i này thường bị thiếu hụt nguồn lực. Chúng thường không có phòng xét xử cố định, mà thường họp ở các tiệm tạp hóa, nhà hàng hoặc nhà riêng. Tòa thường không có thư ký để lưu giữ đầy đủ các ghi chép. Do đó, đa phần việc giải quyết và tố tụng vụ việc thường mang tính không chính thức. Hiếm khi các vụ việc được giải quyết rốt ráo, và thường kết thúc rất nhanh.

Cuối cùng, các tòa sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế được một số bang sử dụng để giải quyết các vấn đề sơ khởi trong các vụ hình sự nghiêm trọng. Chúng thường làm thủ tục khởi tố, bảo lãnh và chỉ định luật sư cho những bị cáo không đủ tiền, và tiến hành điều tra ban đầu. Tiếp đó, vụ việc được chuyển lên tòa sơ thẩm với thẩm quyền chung để làm tiếp phần bào chữa, xét xử và áp dụng hình phạt.

Tòa sơ thẩm với thẩm quyền chung

Hầu hết các bang đều có một nhóm tòa sơ thẩm lớn để giải quyết các vụ hình sự và dân sự nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, ở nhiều bang có các nhóm vấn đề đặc biệt, như tội phạm hình sự vị thành niên, quan hệ gia đình và di chúc, thuộc thẩm quyền xét xử của tòa sơ thẩm chung.

Tại hầu hết các bang, các tòa án này còn có chức năng phúc thẩm. Chúng xét xử phúc thẩm một số loại vụ việc nhất định phát sinh từ tòa sơ thẩm hạn chế. Các phiên xét xử này thường được tiến hành theo thủ tục sơ thẩm lại (de novo) hoặc sơ thẩm lần hai ở tòa sơ thẩm chung.

Tòa sơ thẩm chung thường được chia theo các hạt hoặc vùng. Mặc dù thực tế mỗi bang khác nhau, nhưng quy tắc chung thường sử dụng các ranh giới chính trị hiện có để phân chia hạt tư pháp hoặc vù ng tư pháp, như một tỉnh hoặc một nhóm tỉnh. Tại các khu vực nông thôn, thẩm phán thường đi một vòng và lập tòa án ở các khu vực khác nhau trong phạm vi lãnh thổ theo lịch trình định sẵn. Nhưng ở khu vực thành thị, các thẩm phán thường tổ chức xét xử ở một vị trí cố định quanh năm. Tại các tỉnh lớn, nhóm thẩm phán có thể được chia thành các chuyên ngành. Một số chỉ xét xử các vụ dân sự, còn các thẩm phán khác chuyên xét xử các vụ hình sự.

Tòa ở cấp này có nhiều tên khác nhau. Tên thông dụng nhất là tòa án hạt (district), vùng – lưu động (circuit), và tòa cấp trên (superior). Yêu cầu đối với thẩm phán ở cấp này được quy định trong luật và tất cả các bang đều yêu cầu phải có bằng luật. Các tòa án này cũng có thư ký trợ giúp vì chúng là các tòa án có lưu bản ghi.

Tòa phúc thẩm trung gian

Các tòa phúc thẩm trung gian là nhóm tòa tương đối mới trong hệ thống tư pháp bang. Năm 1911 mới chỉ có 13 tòa, và đến năm 1995 mới có 39 bang thành lập tòa án loại này. Mục đích cơ bản của nó là giúp giảm bớt khối lượng công việc của Tòa án tối cao bang.

Hầu hết tòa loại này được gọi là tòa phúc thẩm, nhưng thỉnh thoảng cũng dùng nhiều tên khác. Hầu hết các bang đều chỉ có một tòa phúc thẩm chịu trách nhiệm trên phạm vi toàn bang. Ví dụ, tòa phúc thẩm ở Alaska chỉ có ba thẩm phán. Nhưng ngược lại cũng có bang có đến 80 thẩm phán tòa phúc thẩm như ở Texas. Tại một số bang, tòa phúc thẩm trung gian xét xử theo thủ tục toàn thẩm (en banc), trong khi các bang khác được phân chia theo các nhóm thường xuyên hoặc luân chuyển.

Tòa chung thẩm

Tất cả các bang đều có tòa chung thẩm. Các bang Oklahoma và Texas có đến hai tòa chung thẩm. Tại hai bang này, một tòa chung thẩm chịu trách nhiệm về các kháng cáo kháng nghị dân sự và một tòa giải quyết hình sự. Hầu hết các bang đều gọi tòa chung thẩm là Tòa án tối cao; một số tên khác cũng được dùng như tòa phúc thẩm (Maryland và New York), tòa tư pháp tối cao (Maine và Massachusetts) và tòa phúc thẩm tối cao (Tây Virginia). Các tòa chung thẩm có từ ba đến chín thẩm phán (hay ở một số bang gọi là đại thẩm phán). Họ thường xét xử theo thủ tục toàn thẩm, và thường nhóm họp ở thủ phủ bang (nhưng không nhất thiết trong mọi trường hợp).

Phạm vi xét xử của tòa chung thẩm bao gồm các vấn đề thuộc thẩm quyền của luật bang, và tất nhiên, chúng là cơ quan xét xử cuối cùng đối với các vấn đề đó. Tại các bang có hệ thống tòa phúc thẩm trung gian, các vụ việc được xét xử ở Tòa án tối cao chủ yếu được lấy từ các tòa trung gian này. Trong trường hợp này, các Tòa án tối cao thường có quyền quyết định vụ nào được xét xử. Do đó, nó có thể dành nhiều thời gian hơn để giải quyết các vấn đề chính sách quan trọng của bang. Nếu không có cấp phúc thẩm trung gian, các vụ án thường buộc phải đưa lên Tòa án tối cao theo thủ tục xem xét lại.

Như vậy, ở hầu hết các bang, tòa chung thẩm giống với Tòa án tối cao Hoa Kỳ ở chỗ nó có nhiều quyền quyết định vụ việc nào sẽ được nó chú ý. Hầu hết các Tòa án tối cao bang cũng theo thủ tục tương tự như thủ tục ở Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Tức là, khi vụ việc được chấp nhận xem xét lại, các bên sẽ trình nộp các văn bản tóm lược, và thực hiện tranh tụng. Sau khi đi đến quyết định, các thẩm phán đưa ra các ý kiến bằng văn bản giải thích cho quyết định đó.

Tòa vị thành niên

Người Mỹ ngày càng quan tâm nhiều đến việc giải quyết các vụ án liên quan đến vị thành niên, và các bang xử lý vấn đề này theo nhiều cách khác nhau. Một số bang thiết lập một mạng lưới tòa án trên toàn bang chuyên giải quyết các vấn đề liên quan đến vị thành niên. Có hai bang là Đảo Rhode và Nam Carolina đã thành lập các tòa án gia đình, chuyên giải quyết các vấn đề quan hệ gia đình cũng như vị thành niên.

Phương pháp phổ biến nhất là trao quyền cho một hoặc nhiều tòa án thẩm quyền hạn chế hoặc thẩm quyền chung của bang giải quyết các vấn đề liên quan vị thành niên. Chẳng hạn, ở Alabama, tòa lưu động (tòa sơ thẩm với thẩm quyền chung) có thẩm quyền xét xử các vấn đề vị thành niên. Tuy nhiên, ở Kentucky, thẩm quyền chuyên biệt vị thành niên nằm trong tay các tòa sơ thẩm hạn chế - tức là các tòa án hạt.

Cuối cùng, một số bang phân chia thẩm quyền xét xử vị thành niên cho nhiều tòa án. Bang Colorado có tòa án vị thành niên cho thành phố Denver và giao thẩm quyền xét xử vị thành niên cho các tòa án hạt (tòa sơ thẩm chung) tại các khu vực khác của bang.

Đồ ng thời, giữa các bang cũ ng có sự khác biệt về quy định lúc nào thì thẩm quyền xét xử thuộc phạm vi của tòa thà nh niên. Các bang đưa ra các tiêu chí về tuổi của bị can để được xét xử ở tòa thành niên. Ngoài ra, nhiều bang quy định người phạm tội trẻ tuổi sẽ bị xét xử ở tòa thành niên nếu có các tình huống đặc biệt. Ví dụ, ở Illinois, tuổi tiêu chuẩn phân biệt giữa vị thành niên và thành niên là 17 tuổi. Tuy nhiên, giới hạn tuổi bị xét xử ở tòa thành niên là 15, nếu phạm tội cố ý giết người (giết người cấp một), tội tình dục hình sự có tình tiết tăng nặng, cướp có vũ khí, cướp có súng và sử dụng vũ khí trái phép ở trường học.

HỖ TRỢ HÀNH CHÍNH VÀ NHÂN SỰ TRONG HỆ THỐNG TƯ PHÁP BANG

Hoạt động hàng ngày của các tòa án liên bang đòi hỏi công sức của rất nhiều cá nhân và tổ chức. Ở hệ thống tòa án bang cũng vậy.

Thẩm phán hòa giải và tiểu hình

Ở một số bang, thẩm phán hòa giải và tiểu hình được gọi là ủy viên chứng nhận (commissioner) hoặc trọng tài (referee). Thẩm phán này được sử dụng để thực hiện một số công việc trong giai đọa n đầu của thủ tục tố tụng hình sự và dân sự. Về mặt này, thẩm phán hòa giải và tiểu hình bang cũng giống với liên bang. Ở một số khu vực tài phán, họ còn tổ chức các phiên quyết định bảo lãnh (bond hearings) và tiến hành điều tra ban đầu các vụ hình sự. Ở một số bang, họ cũ ng được quyền đưa ra phán quyết trong các vụ án nhỏ.

Thư ký luật

Ở các tòa án bang, thường thấy các thư ký luật ở hầu hết các tòa sơ thẩm trung gian và tòa chung thẩm. Còn ở các tòa sơ thẩm bang thường không sử dụng thư ký luật; và đặc biệt là rất hiếm gặp họ ở tòa sơ thẩm hạn chế. Cũng như ở cấp quốc gia, một số thư ký luật phục vụ cho cá nhân thẩm phán, nhưng cũng có người phục vụ toàn bộ tòa án với tư cách là luật sư chuyên trách.

Văn phòng hành chính của Tòa án

Hiện tất cả các bang đều có văn phòng hành chính tòa án (có thể dưới tên gọi khác). Chúng thực hiện rất nhiều nhiệm vụ hành chính cho hệ thống tòa án bang. Những nhiệm vụ thông thường của chúng là chuẩn bị ngân sách, xử lý số liệu, quản lý trang thiết bị, giáo dục tư pháp, thông tin với công chúng, nghiên cứu và quản lý nhân sự. Ở một số ít bang, vấn đề quản chế vị thành niên và thành niên thuộc trách nhiệm của văn phòng hà nh chính, và đây là một hình thức giải quyết tranh chấp thay thế cho xét xử tòa án.

Thư ký tòa và quản trị tòa

Theo truyền thống, thư ký tòa thường giải quyết các công việc thường nhật của tòa. Bao gồm bố trí phòng xét xử, ghi chép quá trình tố tụng, soạn thảo lệnh và phán quyết sau kết quả hành động xét xử, thu các khoản phạt và phí tòa án, và chi tiêu phục vụ xét xử. Ở đa số các bang, chức danh này được dân bầu và có thể được gọi bằng các tên khác. Hiện nay, trong nhiều lĩnh vực, thư ký tòa theo lối truyền thống đã được thay thế bằng các viên quản trị tòa. Thư ký tòa thường chỉ quản lý hoạt động của một phòng xét xử cụ thể. Ngược lại, quản trị tòa hiện đại có thể giúp chánh án điều hành toàn bộ văn phòng xét xử.

KHỐI LƯỢNG CÔNG VIỆC CỦA TÒA ÁN BANG

Phần lớn công việc của ngành tư pháp quốc gia nằ m ở cấp bang, chứ không phải cấp liên bang. Trong khi các thẩm phán liên bang xét xử vài trăm ngàn vụ một năm đã là ghê gớm lắm, thì các tòa án bang thường phải giải quyết vài triệ u vụ mỗi năm, cho dù các vụ quan trọng nhất được xét xử ở cấp liên bang. Trong khi các thẩm phán hòa giải và tòa tiểu hình ở cấp bang giải quyết các vụ nhỏ lẻ, thì cũng có một số phán quyết lớn nhất trong lĩnh vực dân sự đã được các bồi thẩm tòa sơ thẩm cấp bang đưa ra.

Trung tâm quốc gia các tòa án bang đã tổng hợp số liệu về khối lượng công việc của các tòa án chung thẩm bang và tòa phúc thẩm trung gian trong năm 1998. Theo đó, tổng cộng có 261.159 vụ phúc thẩm bắt buộc và không bắt buộc đã được giải quyết ở các tòa phúc thẩm bang. Còn số liệu về số vụ án được xem xét ở các tòa sơ thẩm bang thì khó thu thập hơn. Tuy nhiên, Trung tâm đã rất xuất sắc trong việc theo dõi các số liệu của tòa sơ thẩm bang. Năm 1998, có 17.252.940 vụ đã được xem xét ở các tòa thẩm quyền chung và tòa thẩm quyền hạn chế. Cũng giống như các tòa án liên bang, phần lớn các vụ việc là thuộc lĩnh vực dân sự, tuy nhiên các vụ hình sự thường được chú ý nhiều hơn.

Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (1 )

Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ


Chương 1: Lịch sử và tổ chức của hệ thống tư pháp liên bang




Một trong những đặc điểm quan trọng nhất, thú vị nhất và có lẽ rối rắm nhất của tư pháp Hoa Kỳ là hệ thống tòa án kép; tức là tại mỗi cấp chính quyền (bang và quốc gia) có một hệ thống tòa án riêng. Do đó, có một hệ thống tòa án riêng cho mỗi bang, một cho Hạt Columbia (Washington, D.C) và một cho chính quyền liên bang. Một số vấn đề pháp lý được giải quyết hoàn toàn ở tòa án bang, trong khi các vấn đề khác được giải quyết hoàn toàn tại tòa án liên bang. Nhưng vẫn còn các vấn đề khác được cả hai hệ thống xét xử quan tâm, và đôi khi có xuất hiện va chạm. Các tòa án liên bang được trao đổi trong chương này, còn các tòa án bang sẽ được xem xét trong chương 2.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Trước khi thông qua Hiến pháp, Hoa Kỳ chịu sự điều chỉnh của Hiến chương liên minh (Charter of Confederation). Theo Hiến chương, hầu hết chức năng của chính quyền quốc gia đề u nằm trong tay của một cơ quan lập pháp duy nhất gọi là Quốc hội. Chưa có sự phân chia quyền hành pháp và lập pháp.

Việc thiếu vắng hệ thống tư pháp quốc gia được coi là nhược điểm chính của Hiến chương. Do đó, các đại biểu nhóm họp trong Hội nghị lập hiến được tổ chức tại Philadelphia năm 1787 đã nhất trí là phải thành lập một hệ thống tư pháp quốc gia. Tuy nhiên, có nhiều bất đồng về hình thức cụ thể của ngành tư pháp.

Hội nghị lập hiến và Điều III của Hiến pháp

Đề xuất đầu tiên được đưa ra trước Hội nghị lậ p hiến là Kế họa ch Virginia, trong đó đề nghị thành lập một Tòa án tối cao và các tòa liên bang cấp dưới. Những người phản đối Kế hoạch Virginia đã đáp lại bằng Kế hoạch New Jersey, kêu gọi thành lập một cơ quan xét xử tối cao duy nhất của liên bang. Nhữ ng người ủng hộ Kế hoạch New Jersey đã hết sức khó chịu với ý tưởng thành lập các tòa án liên bang cấp dưới. Họ cho rằng các tòa án bang phải xét sử sơ thẩm tất cả các vụ việc, và quy định đầy đủ quyền kháng cáo lên Tòa án tối cao để bảo vệ các quyền quốc gia và đảm bảo tính thống nhất xét xử trên toàn quốc.

Mâu thuẫn giữa những người ủng hộ quyền của bang và những người ủng hộ quyền quốc gia đã được giải quyết thông qua thỏa hiệp chung của Hội nghị lập hiến. Sự thỏa hiệp này được thể hiện trong Điều III của Hiến pháp, bắt đầu bằng câu: “Quyền tư pháp của Hợp chúng quốc được trao cho một Toà án tối cao, và các tòa cấp dưới có thể được Quốc hội trao quyền hoặc thành lập tùy từng thời điểm”.

Đạo luật tư pháp năm 1789

Sau khi Hiến pháp được phê chuẩn, vấn đề tư pháp liên bang nhanh chóng được đưa ra xem xét. Khi Quốc hội mới nhóm họp năm 1789, mối quan tâm chính đầu tiên của nó là tổ chức tư pháp. Các cuộc thảo luận Dự luật số 1 của Thượng viện xoay quanh nhiều bên tham gia và lý lẽ giống hệt như trong cuộc tranh cãi tư pháp của Hội nghị lập hiến. Một lần nữa, vấn đề đặt ra là nên thiết lập các tòa án liên bang cấp dưới hay trao toàn quyền sơ thẩm cho tòa án bang. Nỗ lực giải quyết vấn đề tranh cãi này đã chia Quốc hội thành các nhóm riêng rẽ.




HỆ THỐNG TÒA ÁN HOA KỲ








(*) Mười hai Tòa phúc thẩm vùng (hay còn gọi là Tòa phúc thẩm lưu động) còn thụ lý các vụ việc từ một số cơ quan liên bang.

(**) Tòa phúc thẩm liên bang còn thụ lý các vụ từ Ủy ban thương mại quốc tế, Hội đồng bảo vệ hệ thống năng lực, Văn phòng bằng sáng chế và thương hiệu và Hội đồng phúc thẩm hợp đồng.


Một nhóm bao gồm những người tin rằng luật liên bang đầu tiên cần được xét xử tại các tòa án bang, và chỉ được xét xử tại Tòa án tối cao Hoa Kỳ theo trình tự phúc thẩm. Những người này sợ chính quyền mới sẽ hủy bỏ quyền của các bang. Nhóm còn lại gồm những nhà lập pháp nghi ngại các tòa án bang sẽ mang tính cục bộ địa phương, và sợ rằng những người khởi kiện từ các bang khác, hoặc nước khác sẽ bị đối xử bất công. Nhóm thứ hai đương nhiên muốn có một hệ thống tư pháp có cả các tòa án liên bang cấp dưới. Kết quả của cuộc tranh cãi này là sự ra đời của Đạo luật tư pháp năm 1789, thiết lập một hệ thống tư pháp bao gồm một Tòa án tối cao (bao gồm một chánh án và năm thẩm phán), ba tòa lưu động (bao gồm hai thẩm phán của Tòa án tối cao và một thẩm phán hạt); và 13 toà án hạt (mỗi tòa án hạt do một thẩm phán chủ trì). Như vậy, quyền được thiết lập các tòa án liên bang cấp dưới đã được thực thi ngay lập tức. Quốc hội không chỉ tạo ra một, mà đến hai nhóm tòa án cấp dưới.

TÒA ÁN TỐI CAO HOA KỲ

Thẩm phán Tòa á n tố i cao Charles Evans Hughes đã viết trong cuốn Tòa án tối cao Hoa Kỳ (Supreme Court of the United States) (1966) rằng Tòa án này “là sản phẩm đặc trưng của người Mỹ cả về mặt khái niệm và chức năng, không kế thừa gì nhiều từ các tổ chức tư pháp trước đó”. Để hiểu được ý định của những người định khung Hiến pháp, cần phải xem xét một khái niệm khác của người Mỹ: hình thức chính quyền liên bang. Các nhà lập quốc quy định hai hình thức chính quyền: chính quyền quốc gia và chính quyền bang; tòa án bang bị ràng buộc bởi luật liên bang. Tuy nhiên, quyền giải thích cuối cùng đối với luật liên bang không thể để cho tòa án bang tự quyết định, và chắc chắn cũng không thể đặt trong tay cơ quan xét xử của một vài tiểu bang, vì có thể sẽ nảy sinh bất đồng. Do đó, Tòa án tối cao phải giải thích các văn kiện lập pháp liên bang. Một chủ định khác của các nhà lập quốc là cho phép chính quyền liên bang được hành động đối với các cá nhân cũng như các bang.

Do vai trò đặc biệt quan trọng của Tòa án tối cao trong hệ thống chính quyền Mỹ, chắc chắn là Toà án này sẽ gây nhiều tranh cãi. Trong cuốn Tòa án tối cao trong Lịch sử Hoa Kỳ (The Supreme Court in United States History), Charles Warren, một nhà nghiên cứu hàng đầu về Tòa án tối cao đã viết: “Có một thực tế nổi bật nhất trong lịch sử Tòa án tối cao là mặc dù hầu như mọi công dân yêu nước và có suy nghĩ chín chắn đều nhận thấy vai trò quan trọng và cần thiết của nó trong hình thức chính quyền liên bang, nhưng không có ngành nào trong hệ thống tam quyền của chính quyền Mỹ, cũng như không có cơ quan nào được thành lập theo Hiến pháp, lại liên tục bị tấn công và phải vượt qua nhiều sự đối kháng như vậy mới đạt đến vị thế ngày nay”.

Thập kỷ đầu của Tòa án tối cao

Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George Washington, đã thiết lập hai tập quán quan trọng khi chỉ định các thẩm phán của Tòa án tối cao. Thứ nhất, ông đã khởi xướng tập quán chỉ định các thẩm phán tương thích về chính trị với Tổng thống. Washington là Tổng thống duy nhất có cơ hội chỉ định toàn bộ nhân sự tư pháp liên bang. Ông đã bổ nhiệm tất cả các thẩm phán liên bang là các đảng viên thân tín của Đảng Liên bang, mà không có bất cứ ngoại lệ nào. Thứ hai, những người được Washington bổ nhiệm tương đối đại diện về mặt địa lý trong các tòa án liên bang. Trong sáu người được chỉ định vào Tòa án tối cao, có ba người miền Nam và ba người miền Bắc.

Vị trí Chánh án là đề cử quan trọng nhất của Washington. Tổng thống cho rằng, người lãnh đạo Toà án tối cao đầu tiên phải là một nhà lãnh đạo - quản lý có uy tín lớn và là một luật gia kiệt xuất. Nhiều cái tên đã được giới thiệu với Washington, và ít nhất đã có một người chính thức xin ứng cử vào chức vị đó. Cuối cùng, Washington đã quyết định chọn John Jay của New York. Mặc dù chỉ mới 44 tuổi, nhưng John Jay đã từng trải trong vai trò là một luật gia, thẩm phán và nhà ngoại giao. Ngoài ra, ông là người dự thảo chính Hiến pháp đầu tiên của bang New York.

Tòa án tối cao nhóm họp lần đầu vào thứ Hai, ngày 1 tháng Hai 1790 tại tòa nhà Royal Exchange ở khu vực Phố Wall của New York, và phiên họp đầu tiên chỉ kéo dài 10 ngày. Trong thời gian này, Tòa đã chọn một thư ký, con dấu và nhận một số luật sư được làm việc trước tòa trong thời gian tới. Tất nhiên là trong phiên này, Tòa không xét xử một vụ việc nào; và ngay cả trong ba năm sau, Tòa cũng không đưa ra phán quyết về bất cứ một vụ việc đơn lẻ nào. Mặc dù đây là một giai đoạn không quan trọng và có nhiều ý nghĩa, nhưng như Charles Warren đã viế t, “Báo chí New York và Philadelphia đã mô tả trình tự phiên họp đầu tiên của Tòa án tối cao đầy đủ hơn bất kỳ sự kiện nào liên quan đến nhà nước mới; và nội dung của nó được đăng tải trên tất cả các tờ báo hàng đầu của các bang khác”.






Ranh giới địa lý của các tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ
và tòa án hạt Hoa Kỳ






Trong thập kỷ đầu tiên, Tòa chỉ quyết định khoảng 50 vụ. Do công việc của Tòa án tối cao trong giai đoạn đầu quá ít, nên đóng góp của Chánh án John Jay chủ yếu là trong các quyết định ở tòa lưu động và đạo đức tư pháp của ông.

Nhưng có lẽ đóng góp quan trọng nhất của Jay là đã kiên quyết khẳng định Tòa án tối cao không tư vấn pháp lý cho ngành hành pháp dưới hình thức các ý kiến cố vấn. Bộ trưởng Ngân khố Alexander Hamilton đã yêu cầu ông cho ý kiến về tính hợp hiến của một nghị quyết do Hạ viện Virginia thông qua, hay Tổng thống Washington đã xin ý kiến về các câu hỏi liên quan đến Tuyên bố trung lập. Trong cả hai trường hợp, câu trả lời của ông là “Không”, vì theo Điều III của Hiến pháp, Tòa án tối cao chỉ quyết định các vụ việc có tranh cãi thực tế.

Ảnh hưởng của Chánh án Marshall

John Marshall giữ chức Chánh án từ năm 1801 đến 1835, và có tầm thống trị rất lớn đối với Tòa án tối cao mà không một chánh án nào có thể sánh được. Sự chi phối của Marshall đối với Tòa án tối cao cho phép ông có thể khởi xướng nhiều thay đổi về cách thức đưa ra phán quyết. Trước thời kỳ của ông, các thẩm phán viết ra các ý kiến độc lập (còn gọi là các ý kiến “seriatim” – tiếng Latin có nghĩa là “lần lượt từng người một”) trong các vụ án lớn. Dưới “triều đại” của Marshall, Tòa án áp dụng thủ tục đưa ra một ý kiến duy nhất. Mục đích của Marshall là hạn chế bất đồng đến mức tối thiểu. Với lý do sự bất đồng sẽ làm giảm thẩm quyền của Tòa án, ông đã cố gắng thuyết phục các thẩm phán giải quyết riêng những khác biệt và sau đó đưa ra một ý kiến thống nhất trước công chú ng. Marshall cũng sử dụng quyền lực của mình để đưa Tòa án tối cao tham gia vào quá trình lập chính sá ch. Ví dụ , ngay từ đầu nhiệm kỳ Chánh án của ông, Tòa án tối cao đã khẳng định quyền lực của mình bằng việc tuyên bố một đạo luật của Quốc hội là vi hiến, trong vụ Marbury kiện Madison (1803).

Vụ này bắt đầu từ cuộc bầu cử tổng thống năm 1800, khi mà Thomas Jefferson chiến thắng và dập tắt khả năng tái cử của John Adams. Nhưng trước khi hết nhiệm kỳ vào tháng Ba 1801, Quốc hội của nhữ ng đảng viên Liên bang sắp mãn nhiệm đã đẻ ra một số vị trí thẩm phán liên bang mới. Đồng thời, Tổng thống Adams đã đề cử những người trung thành với Đảng Liên bang, và được Thượng viện chấp thuận. Trong đó có việc bổ nhiệm Ngoại trưởng sắp mãn nhiệm của nhiệ m kỳ Adams là John Marshall làm Chánh án Toà án tối cao.

Với vai trò Ngoại trưởng, John Marshall phải phong hàm cho các thẩm phán mới được bổ nhiệm. Nhưng do thời gian không kịp, khi bắt đầu nhiệm kỳ của Jefferson, vẫn còn 17 người chưa được phong hàm. Tổng thống mới ra lệnh cho Ngoại trưởng của mình là James Madison không phong hàm cho những người đó. Một trong những người thất vọng trước quyết định này là William Marbury. Ông cùng ba người cũng được bổ nhiệm làm thẩm phán hoà giải ở Hạt Columbia đã quyết định yêu cầu Tòa án tối cao buộc Madison phải phong hàm. Họ đã căn cứ trên Mục 13 của Đạo luật tư pháp năm 1789, cho phép Tòa án tối cao được phát đặc lệnh yêu cầu thực hiện (writ of mandamus) – tức là lệnh của tòa án yêu cầu một viên chức công quyền phải thực hiện một nhiệm vụ chính thức, không tùy nghi.

Vụ việc này đã đặt Marshall vào một tình huống khó xử. Một số người đề nghị ông tự rút lui vì những liên quan trước đây với tư cách là Ngoại trưởng. Đồng thời cũng có người đặt nghi vấn về quyền lực của Tòa án. Nếu Marshall phát đặc lệnh, gần như chắc chắn Madison sẽ từ chối phong hàm (theo lệnh của Jefferson). Khi đó Tòa án tối cao không đủ quyền lực để cưỡng chế thực hiện. Nhưng nếu Marshall từ chối phát đặc lệnh, thì Jefferson đương nhiên sẽ thắng.

Quyết định của Marshall trong tình huống khó xử có vẻ như không lối thoát này đã cho thấy tài năng thiên bẩ m tuyệ t đối của ông. Marshall đã tuyên bố Mục 13 của Đạo luật tư pháp năm 1789 là vi hiến, vì nó trao quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án tối cao vượt quá phạm vi quy định trong Điều III của Hiến pháp. Nhờ đó, quyền lực của Tòa án tối cao được xem xét lại và quyết định các đạo luật của Quốc hội là vi hiến đã được thiết lập. Quyết định này rõ ràng được coi là một trong những quyết định độc lập quan trọng nhất của Tòa án tối cao. Một vài năm sau, Tòa án tối cao cũng khẳng định quyền được xét duyệt tư pháp các hành động của cơ quan lập pháp bang; trong nhiệm kỳ của Marshall, hơn một tá đạo luật bang đã bị bác bỏ trên cơ sở hiến pháp.

Thay đổi trọng tâm của Tòa án tối cao

Đến khoảng năm 1865, mối quan hệ pháp lý giữa chính quyền quốc gia và bang, hay các vụ việc mang tính chế độ liên bang, là công việc chủ yếu của Tòa án tối cao. John Marshall tin tưởng vào chế độ một chính quyền quốc gia mạnh, và không hề ngần ngại trong việc hạn chế các chính sách bang can thiệp vào hoạt động của nó. Một vụ việc thể hiện quan điểm này là vụ Gibbons kiện Ogden (1824), trong đó Tòa án tối cao đã bác bỏ độc quyền bang trong ngành vận chuyển bằng tàu hơi nước, trên cơ sở cho rằng quyền độc quyền đó đã can thiệp vào việc kiểm soát thương mại xuyên bang của quốc gia. Một ví dụ điển hình khác là việc Marshall sử dụng Tòa án tối cao để mở rộng quyền lực của chính quyề n liên bang trong vụ McCulloch kiện Bang Maryland (1819), trong đó vị Chánh án này đã phán quyết rằng Hiến pháp cho phép Quốc hội được thiết lập một ngân hàng quốc gia. Sau khi Marshall qua đời, Tòa án tối cao vẫn tiếp tục kiên định với chính sách ủng hộ một nhà nước quốc gia mạnh. Roger Taney đã thay thế Marshall trở thành Chánh án trong giai đoạn 1836-1864. Mặc dù trong giai đoạn này Tòa án tối cao không hoàn tòan ủng hộ chính quyền liên bang, nhưng Taney đã không đảo ngược định hướng do Marshall lập nên.

Trong giai đoạn 1865–1937, các vấn đề điều tiết kinh tế chiếm phần lớn thời gian của Tòa án tối cao. Việc chuyển trọng tâm từ chế độ liên bang sang điều tiết kinh tế là do việc gia tăng số lượng các đạo luật liên bang và bang nhằm giám sát các hoạt động kinh doanh. Do các đạo luật tăng lên, số vụ đặt vấn đề về tính hợp hiến của chúng cũng tăng lên. Đầu giai đoạn này, quan điểm của Tòa án về việc điều tiết còn nhiều điểm chưa thống nhất, nhưng đến thập niên 1920 thì Tòa án trở nên khá đối nghịch với chính sách điều tiết của chính quyền. Các quy định của liên bang thường bị hủy bỏ trên cơ sở hiến pháp không trao quyền cho Quốc hội, còn các luật bang thường bị loại bỏ vì vi phạm các quyền kinh tế được bảo vệ theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn.

Từ năm 1937, Tòa án tối cao tập trung vào các vấn đề quyền tự do công dân, đặc biệt là quyền hiến định được tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Ngoài ra, ngày càng có nhiều vụ về quyền tố tụng của bị can hình sự. Cuối cùng, Tòa án đã quyết định rất nhiều vụ về vấn đề chính quyền đối xử công bằng với các nhóm chủng tộc và các nhóm thiệt thòi khác.

Tòa án tối cao với tư cách là nhà lập sách

Vai trò lập chính sách của Tòa án tối cao xuất phát từ thực tế nó là cơ quan giải thích luật. Các vấn đề chính sách công được đưa ra xét xử trước Tòa dưới hình thức là các tranh chấp pháp lý cần giải quyết.

Một ví dụ điển hình là trong lĩnh vực bình đẳng chủng tộc. Cuối thập niên 1880, nhiều bang ban hành các đạo luật yêu cầu chia tách phương tiện công ích riêng cho người Mỹ gốc Phi với người da trắng. Ví dụ, năm 1890, bang Louisiana ban hành một đạo luật bắt buộc phải chia tách các phương tiện đường sắt riêng cho người Mỹ gốc Phi và người da trắng, nhưng vẫn đảm bảo công bằng. Hai năm sau, xuất hiện một sự việc gây nhiều phản đối. Lúc đó, có một người da đen mười tám tuổi là Homer Plessy đã chống lại luật của Louisiana và từ chối không chịu rời khỏi ghế dành cho người da trắng trên một chuyến tàu đi từ New Orleans đến Covington, Louisiana. Khi bị bắt và bị buộc tội đã vi phạm luật của Louisiana, Plessey đã khẳng định đây là đạo luật vi hiến. Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã đưa ra phán quyết trong vụ Plessey kiện Ferguson (1896), ủng hộ đạo luật trên. Qua đó, Tòa án đã thiết lập chính sách “chia nhưng vẫn công bằng” tồn tại trong suốt 60 năm. Trong thời gian này, nhiều bang đã quy định các chủng tộc phải ngồi tại các khu vực khác nhau trên xe buýt, tàu hỏa, nhà ga, rạp hát; phải sử dụng các nhà vệ sinh khác nhau, và lấy nước từ các vòi nước khác nhau. Đôi khi người Mỹ gốc Phi không được vào các nhà hàng và thư viện công. Và có lẽ quan trọng nhất là các sinh viên người Mỹ gốc Phi thường phải học ở các trường có chất lượng kém hơn.

Việc chia tách chủng tộc trong trường công đã bị phản đối trong một vụ kiện nổi tiếng, đó là vụ Brown kiện Hội đồng giáo dục (1954). Phụ huynh của những trẻ em người Mỹ gốc Phi cho rằng các đạo luật bang bắt buộc hoặc cho phép chia tách đã dẫn đến việc vi phạm nguyên tắc luật pháp bảo vệ công bằng theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn. Tòa án tối cao đã đưa ra phán quyết cho rằng việc chia tách phương tiện giáo dục vốn là một quy định bất công, và do đó việc chia tách là vi phạm quyền bảo vệ công bằng. Trong phán quyết của vụ Brown, Toà đã bác bỏ học thuyết “chia nhưng vẫn công bằng” và thiết lập chính sách giáo dục công không chia tách.

Bình quân một năm, Tòa đưa ra quyết định với các ý kiến được ký tên trong khoảng 80–90 vụ. Hàng ngàn vụ khác được thu xếp mà không cần phải xem xét toàn diện. Nhờ đó, Toà đã giải quyết rốt ráo một nhóm các vấn đề chính sách rất chọn lọc, có điều chỉnh trong suốt quá trình lịch sử. Trong một nền dân chủ, nhiều vấn đề chính sách công cần được giải quyết thông qua những đại diện của người dân, chứ không phải những thẩm phán được chỉ định có nhiệm kỳ trọn đời. Do đó, về nguyên tắc, các thẩm phán Hoa Kỳ không nên lập chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, mặc dù không chủ động nhưng các thẩm phán vẫn lập chính sách ở một mức độ nào đó.

Nhưng Tòa án tối cao khác các nhà lập chính sách trong ngành hành pháp hoặc lập pháp. Điểm đặc biệt quan trọng là Tòa án không có phương tiện tự khởi xướng. Các thẩm phán phải đợi đến khi vấn đề được đưa ra xét xử trước tòa; sẽ không có việc lập chính sách thông qua tư pháp nếu không có kiện tụng. Tổng thống và các nghị sĩ không gặp phải sự hạn chế đó. Ngoài ra, ngay cả tòa án quyết đoán nhất là Tòa án tối cao cũng bị hạn chế bởi hành động của các nhà lập chính sách khác, như thẩm phán cấp dưới, Quốc hội và Tổng thống. Toà án tối cao phải dựa vào các cơ quan đó thì quyết định của nó mới được thi hành và thực hiện.

Tòa án tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cuối cùng

Tòa án tối cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm lẫn phúc thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm nghĩa là tòa án có quyền xét xử một vụ việc lần đầu tiên. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm nghĩa là một tòa án cấp cao hơn có quyền xem xét lại các vụ việc đã được xét xử ở một tòa án cấp dưới. Tòa án tối cao chủ yếu làm nhiệm vụ phúc thẩm vì phần lớn thời gian của nó được dành để xem xét lại các phán quyết của tòa cấp dưới. Nó là cơ quan xét xử phúc thẩm tối cao ở Hoa Kỳ. Do đó, nó là cơ quan có tiếng nói cuối cùng trong việc giải thích Hiến pháp, các đạo luật của các cơ quan lập pháp và các hiệp ước – trừ khi quyết định của Tòa bị thay đổi thông qua sửa đổi hiến pháp, hoặc trong một số trường hợp là thông qua đạo luật của Quốc hội.

Từ năm 1925, xuất hiện một công cụ gọi là “đặc lệnh lấy lên xét xử lại” (certiorari), cho phép Tòa án tối cao được quyền tự quyết định những vụ việc nào nó sẽ xem xét lại. Theo phương pháp này, một người có thể yêu cầu Tòa án tối cao xem xét lại một phán quyết của tòa cấp dưới; và các đại thẩm phán sẽ quyết định xem có đồng ý với yêu cầu đó hay không. Nếu Tòa án tối cao đồng ý xem xét lại, nó sẽ phát “trát đòi lấy lên xét xử lại”, tức là lệnh yêu cầu tòa cấp dưới chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc lên Tòa án tối cao. Nếu yêu cầu đó bị từ chối, quyết định của toà cấp dưới vẫn giữ nguyên giá trị.

Thực tế công việc của Tòa án tối cao

Một kỳ làm việc chính thức của Toà án tối cao kéo dài từ ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Mười, cho đến khi mọi công việc của năm kết thúc, thường là và o cuố i tháng Sáu hoặc tháng Bảy. Từ năm 1935, Tòa án tối cao có trụ sở riêng ở Washington, D.C; đó là một tòa nhà năm tầng oai nghiêm ố p đá cẩm thạch, trên cửa chính có khắc dòng chữ “Equal Justice Under Law” (“Công lý bình đẳng theo luật pháp”). Tòa nhà này nằm đối diện Đồi Capitol (nơi đóng trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ) qua một con phố. Các phiên chính thức của Tòa án tối cao diễn ra trong một phòng xét xử rộng cỡ 300 chỗ ngồi. Phía trước phòng xét xử là một băng ghế dài để đại thẩm phán ngồi. Khi phiên xét xử diễn ra, Chánh án bước vào qua một tấm phông màu tía phía sau băng ghế và ngồi vào vị trí, tiếp theo là lần lượt các thẩm phán khác. Các ghế thẩm phán được bố trí theo thứ tự thâm niên; Chánh án ngồi ở giữa, tiếp đó là thẩm phán có thâm niên cao nhất ngồi bên phải, thẩm phán tiếp theo ngồi bên trái, và cứ tiếp tục đổi bên như vậy theo thứ tự thâm niên giảm dần. Gần phòng xét xử là phòng nghị án, tại đó các thẩm phán quyết định vụ việc, và các phòng khác là nơi làm việc của thẩm phán và nhân viên tòa án.

Mỗi kỳ làm việc của tòa được chia thành các đợt xét xử cứ hai tuần một lần, trong đó có các phiên xét xử công khai và các cuộc họp nội bộ, và các thời gian nghỉ để các thẩm phán làm việc sau những cánh cửa đóng kín trong lúc xem xét vụ việc và viết ý kiến. Trong mỗi kỳ, Tòa án tối cao xét xử rốt ráo khoảng 80–90 vụ, theo một mô hình tương đối đều đặn.

Tranh tụng. Các cuộc tranh tụng thường được bố trí từ thứ Hai đến thứ Tư của đợt xét xử. Phiên làm việc kéo dài từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa và từ 1 giờ chiều đến 3 giờ chiều. Do đây không phải là thủ tục sơ thẩm nên không có bồi thẩm đoàn, và không gọi nhân chứng. Thay vào đó, luật sư hai bên sẽ đưa ra luận điểm của mình trước các thẩm phán. Tập quán chung là mỗi bên được tranh tụng 30 phút, tuy nhiên, Tòa có thể quyết định cho thêm thời gian. Toà thường nghe tranh tụng bốn vụ trong một ngày. Trong quá trình luật sư đưa ra luận điểm, họ thường bị các thẩm phán cắt ngang để nêu câu hỏi. Tranh tụng là giai đoạn rất quan trọng đối với cả luật sư lẫn thẩm phán vì đây là giai đoạn duy nhất trong trình tự xét xử có sự trao đổi trực tiếp giữa các bên liên quan.

Nghị án. Vào các ngày thứ Sáu trước đợt xét xử hai tuần, Tòa án tối cao tổ chức nghị án; và vào chiều thứ Tư và cả ngày thứ Sáu của đợt xét xử, Toà cũng tiếp tục nghị án. Trong cuộc họp ngày thứ Tư, các thẩm phán thảo luận về các vụ việc tranh tụng trong ngày thứ Hai. Còn trong cuộc họp ngày thứ Sáu, họ trao đổi về các vụ việc tranh tụng vào ngày thứ Ba và thứ Tư, cộng thêm các vấn đề khác cần xem xét. Vấn đề quan trọng nhất trong số các vấn đề khác được xem xét là các đơn xin phát “trát đòi lấy lên xét xử lại”.

Trước cuộc họp ngày thứ Sáu, mỗi thẩm phán được cung cấp một danh sách các vụ việc sẽ được thảo luận. Cuộc họp bắt đầu khoảng 9 giờ 30 hoặc 10 giờ sáng, và kéo dài đến 5 giờ 30 hoặc 6 giờ chiều. Khi bước vào phòng nghị án, các thẩm phán bắt tay nhau và ngồi vào vị trí quanh một chiếc bàn hình chữ nhật. Cuộc họp được tiến hành sau những cánh cửa đóng kín, và không có bất cứ ghi chép chính thức nào về nội dung thảo luận. Chánh án là người chủ toạ phiên họp và là người đầu tiên đưa ra ý kiến đối với mỗi vụ việc. Các thẩm phán khác lần lượt đưa ra ý kiến theo thứ tự thâm niên.

Số thẩm phán tối thiểu để quyết định một vụ việc là sáu người; số lượng tối thiểu này thường được đáp ứng không mấy khó khăn. Và nhiều lúc các vụ việc được quyết định với số lượng thẩm phán ít hơn chín người, do vắng mặt, ốm đau, không tham gia do mâu thuẫn lợi ích. Quyết định của Tòa án tối cao được thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp hai bên có số phiếu ngang nhau, thì quyết định của tòa cấp dưới được giữ nguyên.

Viết ý kiến. Sau khi đạt được quyết định tạm thời tại phiên nghị án, bước tiếp theo là giao việc viết ý kiến cho cá nhân một thẩm phán. Nếu Chánh án bỏ phiếu ở bên đa số, thì ông chính là người viết ý kiến hoặc giao việc đó cho một thẩm phán bên phía đa số. Khi Chánh án bỏ phiếu ở bên thiểu số, thì thẩm phán có thâm niên cao nhất bên phía đa số sẽ viết ý kiến.

Sau cuộc họp, thẩm phán chịu trách nhiệm viết ý kiến của Tòa sẽ viết bản dự thảo ban đầu. Các thẩm phán khác có thể viết các ý kiến riêng. Bản ý kiến hoàn chỉnh sẽ được chuyển cho tất cả các thẩm phán ở cả hai nhóm đa số và thiểu số. Người viết dự thảo thường tìm cách thuyết phục các thẩm phán bên phía thiểu số thay đổi quan điểm, và cố gắng giữ nguyên quan điểm của nhóm đa số. Một quá trình thương lượng sẽ diễn ra, và câu chữ của bản ý kiến có thể được thay đổi nhằm thỏa mãn các thẩm phán khác, và được họ ủng hộ. Nếu có sự phân tán trong Tòa, thì sẽ rất khó đạt được một ý kiến thống nhất rõ ràng và thậm chí có thể dẫn đến việc thay đổi kết quả bỏ phiếu hoặc lấy ý kiến của một thẩm phán khác làm phán quyết chính thức của Tòa.

Mặc dù ít vụ đạt được đồng thuận, nhưng hầu hết các vụ đều được đa số ủng hộ. Những người không thống nhất với quan điểm của Tòa được gọi là bất đồng. Một người bất đồng không nhất thiết phải viết ý kiến bất đồng ra; tuy nhiên, trong vài năm lại đây, xu hướng viết ý kiến bất đồng trở nên phổ biến. Khi có nhiều thẩm phán bất đồng, họ có thể viết ý kiến riêng hoặc tập hợp nhau lại thành một ý kiến bất đồng chung.

Đôi lúc một thẩm phán thống nhất với quyết định của Tòa nhưng có nguyên cớ khác để dẫn đến kết luận đó. Trong trường hợp này, thẩm phán đó sẽ viết một văn bản gọi là ý kiến đồng quy. Một ý kiến được ghi là “đồng quy và bất đồng” nếu nó nhất trí với một phần quyết định của Tòa nhưng không thống nhất với các phần khác. Cuối cùng, đôi lúc Tòa có thể đưa ra một ý kiến “per curiam” (theo tòa án) – tức là một loại ý kiến không ký tên và thường là rất ngắn. Loại ý kiến đó thường được dùng khi Tòa chấp nhận xem xét lại một vụ việc, nhưng không giải quyết triệt để. Ví dụ, Toà có thể quyết định vụ việc mà không cần tranh tụng và đưa ra một bản ý kiến “per curiam” để giải thích cho cách giải quyết vụ việc.

TÒA PHÚC THẨM HOA KỲ

Các tòa phúc thẩm ít được báo giới chú ý hơn so với Tòa án tối cao, nhưng chúng đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. Do Tòa án tối cao chỉ đưa ra quyết định với ý kiến đầy đủ trong khoảng 80–90 vụ trong một năm, nên rõ ràng các tòa phúc thẩm thường là các tòa cuối cùng giải quyết hầu hết các đơn phúc thẩm trong hệ thống tòa án liên bang.

Các tòa lưu động: 1789–1891

Đạo luật tư pháp năm 1789 đã lập nên ba tòa lưu động (tòa phúc thẩm), mỗi tòa bao gồm hai thẩm phán của Tòa án tối cao và một thẩm phán hạt. Thẩm phán hạt trở thành người chịu trách nhiệm chính trong việc giải quyết khối lượng công việc của tòa lưu động. Hai thẩm phán của Tòa án tối cao thường đi đến từng địa phương và tham gia vào các vụ việc. Tập quán này tạo ra đặc điểm thiên về địa phương hơn là quốc gia của tòa lưu động.

Ngay từ đầu, hệ thống tòa lưu động đã được coi là không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là đối với các thẩm phán của Tòa án tối cao, bị buộc phải đi lại quá nhiều. Tổng chưởng lý Edmund Randolph và Tổ ng thống Washington đã thúc giục phải giảm bớt gánh nặng cho các thẩm phán Tòa án tối cao. Quốc hội đã sửa lại đôi chút vào năm 1793, chỉ yêu cầu tòa lưu động phải có một thẩm phán của Tòa án tối cao và một thẩm phán hạt. Vào cuối nhiệm kỳ của Tổng thống John Adam năm 1801, Quốc hội đã bỏ yêu cầu đi lại đối với thẩm phán Tòa án tối cao, và bổ nhiệm 16 thẩm phán lưu động mới, qua đó đã mở rộng rất nhiều thẩm quyền xét xử của các tòa cấp dưới.

Nhiệm kỳ của Tổng thố ng Thomas Jefferson tiếp đó đã cực lực phản đối, và Quốc hội đã phải bãi bỏ quyết định này. Đạo luật tòa lưu động năm 1802 đã quay trở lại chế độ lưu động của các thẩm phán Toà án tối cao và tăng số vùng. Tuy nhiên cơ quan lập pháp cho phép tòa lưu động có thể được tổ chức với chỉ một thẩm phán hạt làm chủ tọa. Thay đổi đó trông có vẻ nhỏ nhặt, nhưng thực chất có ý nghĩa rất quan trọng. Các thẩm phán hạt ngày càng chịu trách nhiệm nhiều đối với cả tòa án hạt lẫn tòa lưu động. Thực tế, lúc đó, thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều nằm trong tay thẩm phán hạt.

Phải đến tận năm 1869 mới diễn ra bước phát triển tiếp theo của tòa án phúc thẩm. Khi đó, Quốc hội đã chấp thuận một giải pháp cho phép bổ nhiệm chín thẩm phán lưu động mới và giảm trách nhiệm xét xử lưu động của các thẩm phán Tòa án tối cao, xuống còn một vòng trong hai năm. Tuy nhiên, Tòa này vẫn bị tồn đọng rất nhiều vụ vì không có giới hạn về quyền kháng cáo lên Tòa án tối cao.

Tòa phúc thẩm: Từ năm 1891 đến nay

Ngày 3 tháng Ba 1891, Đạo luật Evarts đã được ký ban hành, thành lập các tòa án mới với tên gọi là toà phúc thẩm vùng. Các cơ quan xét xử mới thành lập này sẽ xét xử hầu hết các kháng cáo từ tòa án hạt. Tòa lưu động được thành lập từ năm 1789 vẫn tiếp tục tồn tại. Các tòa phúc thẩm vùng mới thành lập bao gồm một thẩm phán lưu động, một thẩm phán tòa phúc thẩm vùng, một thẩm phán hạt và một thẩm phán Tòa án tối cao. Hai thẩm phán là số lượng tối thiểu bắt buộc ở tòa án này.

Sau khi thông qua Đạo luật Evarts, tư pháp liên bang có hai cấp sơ thẩm: đó là các tòa án hạt và toà lưu động. Đồng thời cũng có hai cấp phúc thẩm là tòa phúc thẩm vùng và Tòa án tối cao. Mặc dù luật cho phép trong một số trường hợp Toà án tối cao được trực tiếp xem xét lại vụ án, nhưng phần lớn các phiên phúc thẩm quyết định sơ thẩm diễn ra ở tòa phúc thẩm vùng. Tóm lại, việc thành lập các tòa phúc thẩm vùng đã giải tỏa bớt gánh nặng của Tòa án tối cao khỏi các vụ nhỏ lẻ. Kháng cáo kháng nghị vẫn có thể được đưa ra, nhưng Tòa án tối cao đã có quyền kiểm soát lớn hơn đối với khối lượng công việc của nó. Phần lớn khối lượng công việc trước đây của nó có thể được chuyển cho hai cấp xét xử liên bang thấp hơn.

Bước phát triển tiếp theo của toà phúc thẩm diễn ra vào năm 1911. Lúc đó, Quốc hội đã thông qua luật loại bỏ các tòa lưu động kiểu cũ, vốn không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm và nhiều lúc bị trùng lặp chức năng với tòa án hạt.

Ngày nay, cơ quan xét xử phúc thẩm trung gian được gọi tên chính thức là tòa phúc thẩm, nhưng câu chữ thông tục đôi khi vẫn gọi là toà lưu động. Hiện có 12 tòa phúc thẩm vùng, với 179 thẩm phán tòa phúc thẩm có thẩm quyền. Tòa phúc thẩm chịu trách nhiệm xem xét lại các vụ việc bị kháng cáo kháng nghị từ toà án hạt liên bang (một số vụ việc xuất phát từ cơ quan hành chính) trong phạm vi vùng của nó. Một tòa phúc thẩm chuyên biệt được Quốc hội thành lập năm 1982 là Tòa phúc thẩm khu vực liên bang; đây là một khu vực mang tính tài phán chứ không phải là khu vực địa lý.

Chức năng xem xét lại của toà phúc thẩm

Hầu hết các vụ việc được tòa phúc thẩm xem xét lại đều bắt đầu từ các tòa án hạt liên bang. Cá c bên nguyên đơn không thỏa mãn với quyết định của tòa cấp dưới có thể kháng cáo lên tòa phúc thẩm vùng có tòa án hạt liên bang đó. Các toà phúc thẩm cũng có quyền xem xét lại quyết định của một số cơ quan hành chính.

Do tòa phúc thẩm không thể kiểm soát vụ việc nào sẽ được xét xử theo trình tự phúc thẩm, nên nó phải giải quyết cả những công việc hàng ngày lẫn những việc rất quan trọng. Một đằng là các kháng cáo và kiến nghị nhỏ nhặt, không có ý nghĩa gì hoặc rất ít cơ hội thay đổi bản án. Nhưng mặt khác, cũng có các vụ việc phát sinh những vấn đề lớn về chính sách công và nảy sinh nhiều bất đồng. Quyết định của tòa phúc thẩm trong các vụ đó có nhiều khả năng sẽ tạo lập chính sách chung cho tòa n xã hội, chứ không chỉ những nguyên đơn liên quan. Các vụ việc về quyền tự do công dân, phân chia địa hạt, tôn giáo và giáo dục là những ví dụ điển hình của loại tranh chấp có thể ảnh hưởng đến mọi công dân.

Việc xem xét lại của tòa phúc thẩm có hai mục đích. Thứ nhất là sửa lỗi. Thẩm phán vùng thường được kêu gọi đứng ra giám sát hoạt động của các tòa án hạt liên bang và cơ quan hành pháp liên bang, và giám sát việc các cơ quan này áp dụng và diễn giải luật liên bang và bang như thế nào. Để thực hiện nhiệm vụ đó, tòa phúc thẩm không cần tìm kiếm bằng chứng tình tiết mới, mà là kiểm tra ghi chép của toà cấp dưới để tìm lỗi. Trong quá trình sửa lỗi, tòa phúc thẩm cũng đồng thời giải quyết tranh chấp và thực thi luật quốc gia.

Chức năng thứ hai là phân loại và phát triển một số ít các vụ việc cần được Tòa án tối cao xem xét lại. Thẩm phán vùng giải quyết các vấn đề pháp lý trước khi đưa lên các thẩm phán Tòa án tối cao, và có thể giúp xếp loại những kiến nghị nào cần được xem xét lại. Các học giả tư pháp nhận thấy rằng thường có sự khác nhau giữa phiên xét xử lần đầu và lần thứ hai trong các vụ được phúc thẩm.

Tòa phúc thẩm với tư cách là nhà lập sách

Vai trò lập chính sách của Tòa án tối cao xuất phát từ thực tế nó là cơ quan giải thích luật, và đối với toà phúc thẩm cũng tương tự như vậy. Phạm vi lập chính sách của tòa phúc thẩm thậm chí có lẽ còn quan trọng hơn, vì trong phần lớn vụ việc, tòa phúc thẩm là cơ quan xét xử cuối cùng.

Để minh họa cho tác động quan trọng của các thẩm phán tòa án vùng, chúng ta hãy xem xét một quyết định của Tòa phúc thẩm vùng số 5. Trong nhiều năm, Trường Luật thuộc Đại học Texas (cũng như nhiều trường luật khác ở Mỹ) đã ưu tiên cho người Mỹ gốc Phi và người Mỹ gốc Mêhicô nhằm tăng số lượng các sinh viên thiểu số. Tập quán này đã bị khiếu kiện tại một tòa án hạt liên bang trên cơ sở là nó đã phân biệt đối xử đối với người da trắng và các nhóm thiểu số không được ưu tiên, vi phạm Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn. Ngày 18 tháng Ba 1996, một cơ quan xét xử gồm các thẩm phán Vùng số 5 đã ra phán quyết trong vụ Hopwood kiện Bang Texas, trong đó nêu rõ Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn không cho phép các trường được phân biệt đối xử như vậy, và trường luật này không được sử dụng chủng tộc làm một yếu tố xét tuyển. Đơn kháng cáo được gửi lên yêu cầu Tòa án tối cao phát đặc lệnh (trát đòi) lấy lên xét xử, nhưng đã bị từ chối. Từ đó phán quyết này đã trở thành luật của các bang Texas, Louisiana và Mississippi (các bang thuộc Vùng số 5). Mặc dù về mặt kỹ thuật, chỉ các trường ở Vùng số 5 bị tác động bởi phán quyết này, nhưng một bài xã luận của Tạp chí luật quốc gia đã cho thấy điều khác hẳn, rằng mặc dù một số người “có thể lý luận rằng phán quyết trong vụ Hopwood chỉ được áp dụng ở ba bang miền Nam..., nhưng thực tế là hiệu trưởng tất cả các trường luật (và các trường khác) trên toàn quốc, do sợ bị kiện tương tự, đã phải tìm các cách khác thay thế cho hành động ưu tiên các nhóm thiểu số”.

Thực tế công việc của tòa phúc thẩm

Tòa phúc thẩm khác với Tòa án tối cao là chúng không được quyết định vụ nào được xét xử, và vụ nào thì không. Nhưng các thẩm phán vùng cũng đã xây dựng nhiều phương pháp để sử dụng thời giờ của họ một cách hiệu quả nhất.

Rà soát sơ bộ. Trong giai đoạn rà soát sơ bộ, thẩm phán quyết định sẽ xem xét phúc thẩm một cách triệt để, hay giải quyết vụ việc theo hình thức khác. Khối lượng án tồn đọng có thể được giảm bớt bằng cách tập hợp các kháng nghị tương tự vào một vụ xét xử chung, và kết quả cũng sẽ là một bản án chung. Để quyết định vụ nào sẽ được giải quyết mà không cần tranh tụng, các tòa án phúc thẩm ngày càng phải dựa nhiều vào thư ký luật hoặc các chưởng lý tham mưu. Những người này đọc đơn từ và tóm tắt lại, sau đó gửi đề xuất lên các thẩm phán. Do đó, nhiều vụ việc được giải quyết mà không thông qua giai đoạn tranh tụng.

Cơ quan xét xử gồm ba thẩm phán. Các vụ việc được giải quyết triệt để thường được xem xét bởi một cơ quan xét xử gồm ba thẩm phán, chứ không phải toàn bộ thẩm phán phúc thẩm trong vùng. Tức là nhiều vụ việc có thể được xét xử đồng thời bởi các nhóm ba thẩm phán khác nhau, thường ngồi tại các thành phố khác nhau trong vùng.

Thủ tục tố tụng toàn thẩm (En Banc). Đôi lúc, các nhóm thẩm phán khác nhau trong cùng một vùng có thể đưa ra các phán quyết mâu thuẫn trong các vụ tương tự nhau. Để giải quyết mâu thuẫn và tăng cường tính nhất quán trong vùng, luật liên bang quy định thủ tục tố tụng “en banc” (toàn thẩm) (một từ cổ của Pháp, chỉ các ghế ngồi trên cao), trong đó tất cả các thẩm phán phúc thẩm ngồi lại với nhau trong cùng một cơ quan xét xử và quyết định một vụ việc. Ngoại lệ đối với quy tắc này xuất hiện ở Vùng số 9, do ở đây việc tập hợp được tất cả các thẩm phán phúc thẩm là quá khó khăn. Do đó, cơ quan xét xử “en banc” chỉ gồm 11 thẩm phán. Thủ tục tố tụng “en banc” cũng có thể được sử dụng để giải quyết các vụ việc có tầm quan trọng đặc biệt.

Tranh tụng. Các vụ việc lọt qua vòng rà soát sơ bộ và chưa được các bên liên quan tự giải quyết thì sẽ được đưa ra tranh tụng. Luật sư của mỗi bên chỉ được cho phép một thời lượng ngắn (có thể chỉ khoảng 10 phút); trong thời gian đó họ sẽ trao đổi về các điểm nêu trong văn bản tóm lược của mình, và phải trả lời các câu hỏi của thẩm phán.

Phán quyết. Sau giai đoạn tranh tụng, các thẩm phán có thể nghị án trong một thời gian ngắn, và nếu thống nhất được, họ sẽ công bố phán quyết ngay lậ p tức. Nếu không, phán quyết sẽ được đưa ra sau khi kéo dài thời gian nghị án. Sau khi nghị án, một số quyết định sẽ được công bố, kèm theo một lệnh ngắn hoặc văn bản ý kiến không ký tên của tòa. Một số ít phán quyết được đưa ra kèm theo các ý kiến dài hơn, được các thẩm phán ký tên, hay thậm chí là các ý kiến bất đồng và đồng quy. Dù tập tục tòa phúc thẩm ở các vùng là khác nhau, nhưng gần đây có xu hướng chung là giảm bớt số lượng các ý kiến được lập thành văn bản và công khai hóa.

TÒA ÁN HẠT HOA KỲ

Tòa án hạt Hoa Kỳ là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống tư pháp liên bang. Mặc dù một số vụ việc được kháng cáo kháng nghị lên tòa phúc thẩm hay thậm chí là Toà án tối cao, nhưng hầu hết các vụ án liên bang đều chỉ được xét xử ở các tòa sơ thẩm Hoa Kỳ. Nếu xét về mặt số lượng tuyệt đối các vụ được xét xử, thì tòa án hạt là những con ngựa thồ của ngành tư pháp liên bang. Nhưng tầm quan trọng của nó không chỉ đơn thuần là số vụ được xét xử.

Các tòa án hạt đầu tiên Trong Đạo luật tư pháp năm 1789, Quốc hội đã quyết định thành lập một mạng lưới các tòa sơ thẩm liên bang. Mục 2 của luật này đã lập nên 13 tòa án hạt, trong đó quy định mỗi trong số 11 bang lúc đó trong Liên minh là một hạt, một phần của Massachusetts và Virginia sau này trở thành Maine và Kentucky mỗi nơi là một hạt. Cơ chế tổ chức này đã tạo lập tập quán vẫn duy trì đến ngày nay, đó là phân chia địa giới tòa án hạt theo ranh giới bang.

Các thẩm phán hạt đầu tiên

Mỗi tòa án hạt liên bang có một thẩm phán sống ở hạt đó. Ngay khi thông tin này được đưa ra, Tổng thống Washington bắt đầu nhận được thư từ của nhiều người xin được bổ nhiệm. Nhiều người đề nghị các nghị sĩ và Phó tổng thống John Adams đề cử với Tổng thống Washington. Nhưng ứng cử cá nhân không hẳn đã thành công và đó không phải là cách duy nhất để được Tổng thống chú ý. Ví dụ như Harry Innes, người không ứng cử và o vị trí thẩm phán Kentucky, nhưng đã được bổ nhiệm sau khi được một nghị sĩ bang này đề cử.

Khi các bang mới gia nhập Liên minh, các tòa án hạt mới được thành lập. Tổng số người bổ sung cộng với thay thế được Washington bổ nhiệm là 33 người. Tất cả các thẩm phán được bổ nhiệm đều là thành viên của đoàn luật sư. Trừ bảy người, còn lại tất cả thẩm phán đều có kinh nghiệm làm việc ở bang hoặc địa phương với tư cách là thẩm phán, công tố hoặc chưởng lý. Các tổng thống sau này vẫn tiếp tục bổ nhiệm các luật sư có kinh nghiệm trong hoạt động dịch vụ công làm thẩm phán liên bang.

Tổ chức hiện nay của tòa án hạt

Trong quá trình phát triển của đất nướ c, nhiều tòa án hạt được thành lậ p. Và Quốc hội bắt đầu chia các bang thành nhiều hạt. Các bang California, New York, và Texas có bốn hạt mỗi bang, nhiều nhất so với các bang khác. Tổ chức khu vực hạt không còn theo đường ranh giới bang, mà việc chia hạt hầu như không theo một cơ sở nào cả. Diện tích và số dân của các hạt rất khác nhau. Qua nhiều năm, một tòa án hạt đã được thành lập cho Hạt Columbia, và một số khu vực lãnh thổ đã có tòa án hạ t riêng. Hiện có đủ tòa án hạt ở 50 bang, Hạt Columbia, Guam, Puerto Rico, Quần đảo Virgin và Quần đảo Bắc Mariana.

Ban đầu, mỗi tòa án hạt chỉ có một thẩm phán. Nhưng khi số dân và số vụ việc tăng lên, Quốc hội thường bổ sung thẩm phán cho hầu hết các hạt. Đạo luật thẩm phán liên bang năm 1990 đẻ ra thêm 74 vị trí thẩm phán hạt, đưa tổng số thẩm phán hạt lên 649 người. Ngày nay, tất cả các hạt đều có hơn một thẩm phán; Hạt phía Nam New York, bao gồm Manhattan và Bronx, hiện có 28 thẩm phán, và là hạt có đông thẩm phán nhất. Vì mỗi phiên xét xử của tòa án hạt liên bang thường do một thẩm phán điều khiển, nên tại một thời điểm có thể có nhiều vụ việc được xét xử đồng thời trong phạm vi một hạt.

Tòa án hạt với tư cách là tòa án sơ thẩm

Quốc hội đã xây dựng tòa án hạt làm cơ quan xét xử sơ thẩm của hệ thống tư pháp liên bang, và trao quyền tài phán sơ khởi cho chúng trong gần như tất cả các vụ việc. Tòa án hạt là tòa án liên bang duy nhất trong đó luật sư được làm việc và đối chất giữa những người làm chứng. Do đó, các ghi chép tình tiết được thực hiện tại giai đoạn này. Quá trình phúc thẩm chỉ tập trung vào việc sửa lỗi chứ không phải xây dựng lại tình tiết.

Nhiệm vụ xác định tình tiết vụ việc thuộc về bồi thẩm đoàn, bao gồm một nhóm công dân của cộng đồng, đóng vai trò làm người phân xử không thiên vị, và áp dụng luật cho tình tiết đó. Hiến pháp bảo vệ quyền của bồi thẩm trong các vụ hình sự theo Tu chính án Hiến pháp thứ sáu, và trong các vụ dân sự theo Tu chính án Hiến pháp thứ bảy. Tuy nhiên, quyền đó có thể bị từ chối, và trong trường hợp đó, thẩm phán sẽ trở thành người phân xử cả về tình tiết lẫn các vấn đề luật pháp. Trường hợp này gọi là thẩm phán sơ thẩm (bench trial).

Có hai loại bồi thẩm đi kèm với tòa án hạt liên bang. Đại bồi thẩm đoàn là một nhóm nam giới và nữ giới họp lại để xác định xem có thể có cơ sở tin rằng một người bị truy tố có phạm tội liên bang hay không. Các đại bồi thẩm họp định kỳ để nghe những lời buộc tội do chưởng lý Hoa Kỳ đưa ra. Ngược lại, tiểu bồi thẩm được chọn ngẫu nhiên trong cộng đồng để nghe các bằng chứng, và quyết định xem một người bị kiện trong một vụ sơ thẩm dân sự có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không, hoặc một bị can trong một vụ sơ thẩm hình sự có tội hay không có tội. Quy tắc liên bang yêu cầu trong các vụ hình sự phải có 12 bồi thẩm, nhưng số lượng bồi thẩm trong các vụ dân sự thường ít hơn. Các tòa án hạt liên bang thường có bồi thẩm đoàn sáu người trong các vụ dân sự.

Tòa án sơ thẩm được coi là tham gia chủ yếu vào việc cưỡng chế quy phạm, trong khi các tòa phúc thẩm được coi là có nhiều cơ hội trong việc lập chính sách. Cưỡng chế quy phạm gắn chặt với việc thực thi công lý, vì tất cả các nước đều phát triển các chuẩn mực căn bản để đạt được một xã hội công bằng và trật tự. Quy phạm xã hội được đưa vào trong các đạo luật, quy định hành pháp, tiền lệ án và truyền thống cộng đồng. Ví dụ, luật hình sự quy định thành luật các khái niệm về hành vi có thể chấp nhận và không thể chấp nhận. Một thẩm phán quyết định một vụ việc buộc tội vi phạm pháp luật tức là đã cưỡng chế quy phạm. Do các vụ việc loại này hiếm khi cho phép thẩm phán được vượt quá các giới hạn nghiêm khắc của yêu cầu pháp luật và yêu cầu thủ tục, nên các thẩm phán ít có cơ hội được tạo ra các quy định luật mới hoặc xây dựng chính sách mới. Trong các vụ dân sự cũng vậy, thẩm phán thường bị giới hạn trong việc cưỡng chế quy phạm, vì các vụ kiện thường phát sinh từ tranh chấp cá nhân, và hậu quả của nó chỉ liên quan đến các bên tham tụng.

Tuy nhiên, tòa án hạt cũng đóng vai trò nhất định trong việc lập chính sách. Do người Mỹ ngày càng thiên về kiện tụng, nên những tranh chấp trước đây thường được giải quyết không chính thức thì nay lại được quyết định ở tòa án. Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tòa án hạt liên bang? Theo một nghiên cứu, “Những lĩnh vực mới có sự tham gia của tư pháp thường không có hướng dẫn rõ ràng và chính xác của tòa án cấp trên cũng như của ngành lập pháp; và kết quả là tạo cơ hội cho bồi thẩm tòa sơ thẩm có thể viết ra những nội dung mới, tức là đóng vai trò lập chính sách”.

TÒA ÁN HIẾN ĐỊNH VÀ TÒA ÁN LUẬT ĐỊNH

Đạo luật tư pháp năm 1789 thiết lập ba cấp trong hệ thống tòa án liên bang tồn tại đế n ngày nay. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Quốc hội thự c thi thẩm quyền của mình dựa trên Điều I và Điều III của Hiến pháp, và lập nên các tòa án liên bang khác. Các tòa án được thiết lập theo Điều III được gọi là tòa án hiến định, còn các tòa án được lập theo Điều I được gọi là tòa án luật định. Tòa án tối cao, tòa phúc thẩm, tòa án hạt liên bang là tòa hiến định. Tòa luật định bao gồm Tòa phúc thẩm quân sự Hoa Kỳ, Tòa án thuế Hoa Kỳ và Tòa phúc thẩm cựu chiến binh.

Không giống như tòa hiến định, các tòa luật định ngoài nhiệm vụ tư pháp còn có nhiệm vụ hành pháp và bán lập pháp. Một điểm khác nữa là KHÁI QUÁT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HOA KỲ 48 tòa án luật định thường được lập nên nhằm mục đích công khai là giúp quản lý một đạo luật cụ thể của Quốc hội. Còn các tòa hiến định là các cơ quan xét xử, được thiết lập để giải quyết kiện tụng.

Cuối cùng, mức độ độc lập của tòa án hiến định và luật định với hai ngành khác của chính quyền là khác nhau. Các thẩm phán theo Điều III (tòa hiến định) được phục vụ trong suốt giai đoạn năng lực hành vi còn tốt, tức là gần như suốt đời. Do các thẩm phán theo Điều I (tòa luật định) không được Hiến pháp bảo đảm về giai đoạn năng lực hành vi còn tốt, nên Quốc hội quy định nhiệm kỳ cụ thể. Tóm lại, tòa hiến định có mức độ độc lập đối với hai ngành khác của chính quyền cao hơn so với tòa luật định.

HỖ TRỢ HÀNH CHÍNH VÀ NHÂN SỰ TRONG HỆ THỐNG TƯ PHÁP LIÊN BANG

Mặc dù thẩm phán là người nổi bật nhất trong hệ thống tư pháp, nhưng phía sau họ có một đội ngũ hỗ trợ đông đảo. Công sức của họ nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà thẩm phán không có khả năng, hoặc không phù hợp để thực hiện, hoặc đơn giản là vì họ không đủ thời gian. Một số thành viên đội ngũ hỗ trợ, như thư ký luật, có thể làm việc riêng cho một thẩm phán. Nhưng cũng có những người khác, như thẩm phán hòa giải và tiểu hình Hoa Kỳ, được phân công làm việc cho một tòa án cụ thể. Ngoài ra còn có các cán bộ của cơ quan hành chính, như Văn phòng hành chính các tòa án Hoa Kỳ, phục vụ toàn bộ hệ thống tư pháp.

Thẩm phán hòa giải và tiểu hình Hoa Kỳ

Để cố gắng hỗ trợ khối lượng công việc của các thẩm phán hạt liên bang, năm 1968, Quốc hội đã thành lập một hệ thống thẩm phán hòa giải và tiểu hình để phục vụ nhu cầu và tình hình cụ thể của mỗi tòa án hạt. Thẩm phán hòa giải và tiểu hình được thẩm phán tòa án hạt bổ nhiệm theo nhiệm kỳ tám năm, mặc dù họ có thể bị bãi nhiệm trước khi hết nhiệ m kỳ “nế u có lý do chính đáng”. Trong phạm vi hướng dẫn của Quốc hội, các thẩm phán tại mỗi tòa án hạt được quyền quy định nhiệm vụ và trách nhiệm cho các thẩm phán hòa giải và tiểu hình. Cơ quan lập pháp cho phép nếu được sự đồng thuận củ a các bên liên quan, thẩm phán hòa giải và tiểu hình được thực hiện tất cả các thủ tục trong các vụ dân sự có hoặc không có bồi thẩm, và đưa ra phán quyết, cũng như được tiến hành xét xử những người bị buộc tội tiểu hình (ít nghiêm trọng) trong phạm vi hạt đó, với điều kiện phải được bị cáo đồng ý. Tuy nhiên, do quyền quyết định ủy quyền trách nhiệm cho thẩm phán hòa giải và tiểu hình vẫn thuộc thẩm phán hạt, nên sự tham gia của thẩm phán hòa giải và tiểu hình vào việc giải quyết các vụ việc vẫn còn nhiều hạn hẹp so với phạm vi được luật cho phép.

Thư ký luật

Người được coi là đã sử dụng thư ký luật đầu tiên ở Hoa Kỳ là Thẩm phán Horace Gray của bang Massachusetts. Vào mùa hè năm 1875, khi còn làm chánh án ở Tòa án tối cao Massachusetts, ông đã tự bỏ tiền thuê một sinh viên tốt nghiệp xuất sắc của Trường Luật Harvard. Mỗi năm, ông thuê thêm một thư ký mới từ Trường Harvard, và đến khi ông được bổ nhiệm vào Tòa án tối cao Hoa Kỳ năm 1882, ông đã đưa một thư ký luật đi cùng lên làm việc ở tòa án tối cao của quốc gia.

Người kế nhiệm Thẩm phán Gray ở Tòa án tối cao là Oliver Wendell Holmes đã tiếp tụ c áp dụng tập quán hàng năm thuê thêm một sinh viên tốt nghiệp xuất sắc ở Trường Luật Harvard làm thư ký củ a mình. Khi William Howard Taft, cựu giảng viên luật ở Trường Yale, trở thành chánh án, hàng năm ông thuê thêm một thư ký luật của hiệu trưởng Trường Luậ t Yale. Harlan Fiske Stone, cựu hiệu trưởng Trường Luật Columbia, sau khi được bổ nhiệm vào Tòa án tối cao năm 1925 đã duy trì tập quán mỗi năm thuê một sinh viên tốt nghiệp Columbia làm thư ký luật.

Từ những tập quán này, đã có sự gia tăng ổn định số lượng thư ký luật ở tất cả các tòa án liên bang. Hiện có hơn 2.000 thư ký luật làm việc cho các thẩm phán liên bang, và hơn 600 người phục vụ các thẩm phán xử phá sản và thẩm phán hòa giải và tiểu hình Hoa Kỳ. Ngoài số lượng thư ký luật được từng thẩm phán thuê riêng, tất cả các tòa án phúc thẩm và một số tòa án hạt còn thuê thư ký luật chuyên nghiệp để phục vụ cho cả tòa án.

Nhiệm vụ của thư ký luật rất khác nhau, tùy mức độ ưu ái của thẩm phán mà họ đang phục vụ. Điều này cũng khác nhau giữa các loại tòa án khác nhau. Thư ký luật cho các thẩm phán hạt liên bang thường làm nhiệm vụ chủ yếu như một trợ lý nghiên cứu. Họ dành phần lớn thời gian xem xét các kiến nghị trong các vụ án dân sự và hình sự. Đối với mỗi kiến nghị, họ xem xét và lưu ý các vấn đề và địa vị của các bên liên quan, sau đó nghiên cứu các điểm quan trọng phát sinh từ những kiến nghị đó và chuẩn bị báo cáo cho thẩm phán. Vì công việc của họ liên quan đến giai đoạn đầu tiên của quá trình xét xử, họ có nhiều mối liên hệ với luật sư và người làm chứng. Thư ký luật ở cấp này có thể tham gia vào việc dự thảo ý kiến ban đầu của tòa thẩm phán.

Ở cấp phúc thẩm, đầu tiên thư ký luật tham gia vụ việc với nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề luật pháp và tình tiết thể hiện trong kháng cáo kháng nghị. Tòa phúc thẩm không có quyền được chấp nhận xét xử hay không xét xử một vụ việc như Tòa án tối cao, nên nó sử dụng một số công cụ sơ kiểm để phân loại các vụ việc có thể giải quyết nhanh chóng, với những vụ việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn. Thư ký luật là một phần của quá trình sơ kiểm này.

Một số vụ được tổ chức tranh tụng, và thư ký được gọi lên hỗ trợ thẩm phán chuẩn bị. Nếu buộc thẩm phán phải phân tích rất nhiều tài liệu trước buổi tranh tụng thì họ sẽ rất vất vả. Họ chỉ có đủ thời gian xem qua những phần quan trọng nhất của các bản ghi do thư ký luật đưa lên.

Khi một quyết định được tòa phúc thẩm thông qua, thư ký luật thường tham gia vào việc viết lệnh đi kèm với phán quyết. Thư ký thường tham gia dự thảo ý kiến ban đầu hoặc lệnh theo chỉ dẫn của thẩm phán. Thư ký luật cũng có thể được yêu cầu chỉnh sửa hoặc kiểm tra dẫn chứng (viện dẫn một đạo luật, một vụ án đã xét xử trước đó, hoặc cẩm nang pháp lý, dưới hình thức tóm lược hoặc một luận điểm trước tòa) trong bản ý kiến của thẩm phán. Công việc của thư ký luật cho các thẩm phán ở Tòa án tối cao cũng gần giống công việc của thư ký ở các tòa phúc thẩm khác. Thư ký đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ các đại thẩm phán quyết định xem vụ nào sẽ đem ra xét xử. Theo đề nghị của Thẩm phán Lewis F. Powell (con), năm 1972, đa số các thành viên của Tòa bắt đầu tham gia vào một nhóm gọi là “certpool” (“nhóm xem xét đặc lệnh lấy lên xét xử”); các thẩm phán tập hợp các thư ký của mình lại, chia tất cả các tài liệu, và chuyển bản nhận xét về đặc lệnh lấy lên xét xử của từng thư ký cho tất cả những người trong nhóm. Bản nhận xét tổng hợp tình tiết của vụ việc, các vấn đề luật pháp được đưa ra và đề xuất các hành động – tức là có nên xét xử triệt để hay không, hay là từ chối hoặc loại bỏ. Khi các thẩm phán bỏ phiếu đồng ý xét xử vụ việc, các thư ký luật cũng như các thư ký ở tòa phúc thẩm sẽ chuẩn bị ý kiến để các thẩm phán sử dụng trong quá trình tranh tụng. Cuối cùng, thư ký luật cho các thẩm phán Tòa án tối cao, cũng giống như các thư ký ở tòa phúc thẩm, sẽ giúp soạn thảo ý kiến.

Văn phòng hành chính của các tòa án Hoa Kỳ

Công tác hành chính của toàn bộ hệ thống tư pháp liên bang do Văn phòng hành chính của các tòa án Hoa Kỳ quản lý. Từ khi thành lập năm 1939, văn phòng này đã giải quyết tất cả các việc từ cung cấp trang thiết bị đến thương thảo với các cơ quan nhà nước khác để tiếp quản nơi làm việc cho tòa án trong các tòa nhà liên bang, lưu giữ hồ sơ nhân sự tư pháp và thu thập dữ liệu về các vụ việc được xem xét ở tòa liên bang.

Văn phòng hà nh chính cũng phục vụ cho Diễn đàn tư pháp của Hoa Kỳ, là tổ chức lập chính sách hành chính trung tâm của hệ thống tư pháp liên bang. Ngoài việc cung cấp số liệu thống kê cho nhiều ủy ban của Diễn đàn, Văn phòng hành chính còn đóng vai trò làm trung tâm tiếp nhận và trung chuyển cho các thông tin và kiến nghị đưa ra Diễn đàn tư pháp. Văn phòng còn làm nhiệm vụ liên lạc cho cả hệ thống tư pháp liên bang và Diễn đàn tư pháp, làm cơ quan hậu thuẫn cho ngành tư pháp trong các vấn đề liên quan đến Quốc hội, ngành hành pháp, các nhóm nghề nghiệp và công chúng nói chung. Đặc biệt quan trọng là vai trò đại diện trước Quốc hội, tại đó, văn phòng phối hợp với các thẩm phán liên quan sẽ đưa ra đề xuất ngân sách, bổ sung thẩm phán, kiến nghị thay đổi thủ tục tòa án và các biện pháp chủ chốt khác.

Trung tâm tư pháp liên bang

Trung tâm tư pháp liên bang được thành lập năm 1967 là cơ quan của các tòa án liên bang phục vụ công tác đào tạo liên tục và nghiên cứu. Nói chung, Trung tâm có ba nhóm nhiệm vụ: triển khai nghiên cứu về các tòa án liên bang, đề xuất cải thiện công tác quản lý hành chính của các tòa án liên bang, và xây dựng các chương trình giáo dục đào tạo cho cán bộ trong ngành tư pháp.

Từ ngày đầu thành lập, các thẩm phán đã được dự các bài giảng định hướng và các chương trình đào tạo khác do Trung tâm tư pháp liên bang tiến hành. Trong những năm gần đây, các thẩm phán hòa giải và tiểu hình, các thẩm phán về phá sản và cán bộ hành chính cũng được tham dự các chương trình đào tạo. Do sử dụng nhiều công nghệ hình ảnh và vệ tinh, nên Trung tâm tư pháp liên bang có khả năng tiếp cận đến rất nhiều người.

KHỐI LƯỢNG CÔNG VIỆC CỦA TÒA ÁN LIÊN BANG

Khối lượng công việc của các tòa á n liên bang ở cả ba cấp - tòa án hạt, tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao Hoa Kỳ - đều rất nặng nề.

Trong năm tài khóa 2002, có khoảng hơn 340.000 vụ được khởi kiệ n ở tòa án hạt liên bang. Riêng số vụ hình sự đã tăng 43% tính từ năm 1993.

Năm 1995 đã có 50.072 vụ phúc thẩm ở một tòa án phúc thẩm khu vực. Con số này tăng hàng năm, lên đến mức 60.847 vụ năm 2003. Tuy nhiên, số vụ được tòa phúc thẩm giải quyết dứt điểm cũng tăng đều, từ 49.805 vụ năm 1995 lên đế n 56.586 vụ năm 2002.

Tổng khối lượng công việc của Tòa án tối cao phần lớn được tính theo tiêu chuẩn lịch sử; đã có 8.255 vụ được đặt lên bàn xem xét của Tòa án tối cao trong kỳ làm việc năm 2002. Tuy nhiên, Tòa án tối cao được quyền quyết định vụ việc nào sẽ được nó giải quyết triệt để. Do đó, số vụ đượ c tranh tụng trước Tòa giả m khá nhiề u qua các năm. Trong kỳ làm việc năm 2002, chỉ có 84 vụ được tranh tụng và 79 vụ được giải quyết với 71 bản ý kiến được ký tên.