Thứ Năm, 29 tháng 7, 2010

Trần Hoài Thư - Đọc một bài thơ "lục bát mới" trước 1975 của Thành Tôn

Đọc một bài thơ "lục bát mới" trước 1975 của Thành Tôn
Trần Hoài Thư
23.07.2010 .







Nói với cô bé ngồi quán

Tặng các bạn hội quán: Đán, Lâm, Danh

Vào đây, ghế quạnh, khuya người
Quán như địa phủ, nhạc đời nhân gian
Quầy trơ, mắt bé ngỡ ngàng
Thuyền ai đổ bến, lòng nàng bâng khuâng


Hồn ta trải gió đầy sân
Tình ta, mây cũng mấy lần thu nao
Vào đây bàn nhẵn, câu chào
Quen như thân thể, lạ nào chén ly

Đời nhau, khói thuốc quên đi
Bên tai cổ nhạc lầm lỳ canh tân
Trên kia dáng bé tần ngần
Lời yêu chậm nói, tình gần tay trao


Vào đây đèn đủ hanh hao
Bóng ai theo đến kẻ nào quay lui
Cúi đời trên chén ly, khuya
Mắt nhau một hướng, tình chia mấy trùng


Ngồi thầm, góc quán mông lung
Xa nghe lời kẻ, gần chùng dáng ai
Vào đây nhạc đĩa đầy vai
Vòng quay nhịp lặp, kim mài giọng quen

Mòn hao sợi tóc trăm năm
Khuya, mưng máu chậm. Tình, bầm tim mau
Ngậm lòng, quán vắng, ơn nhau
Ly trơ ghế nóng, bé chau mắt nhìn


Vào đây như một đức tin
Khói tan đốm thuốc, đời vin tay nào
Miệng cười kín nụ lao đao
Tình chia nghĩa sớt, câu chào riêng ai

Trách gì ý lỡ, lời sai
Cho nhau góc quán đêm dài dung thân
Thôi em trả đó tình gần
Ta xin bóng chiếc, đời cần nhau, đâu ?

Vào đây, ghế quạnh, khuya nhàu
Tình như cổ tích đời sau kể thầm.



Bài thơ là một chứng minh về sự không ngừng tìm tòi, sáng tạo của người thơ, đặc biệt nhà thơ trẻ, trong việc canh tân giòng thơ lục bát, không phải hôm nay, mà hôm qua, không phải bây giờ, mà cách đây gần 50 năm.

Sự canh tân cho thơ là một việc làm chung. Không phải cái ngôi vị được dành riêng cho một cá nhân nào.

Đây là một tác giả điển hình. Ngoài tác giả này, còn có biết bao tác giả khác. Âm thầm. Bỏ cuộc. Tử trận, Tội tù. Và quên lãng. Việc sưu tập vì vậy rất khó khăn.

Riêng cá nhân chúng tôi, qua những tháng miệt mài sưu tập, với cả ngàn bài lục bát, với hơn 600 trang đánh máy để cân nhắc từng giòng, từng chữ, và với những niềm vui vô tận trên những trang thơ ngỡ chừng đã mất, có nhận định rằng, bài thơ trên là một trong số bài lục bát mới diệu kỳ nhất, lạ nhất của một thời, và chưa chắc, mọi thời.

Thứ nhất là loại thơ tân hình thức. Nó là một bài thơ có nhiều dấu chấm, phết, ngắt câu nhiều nhất.


Trước năm 1975, một số tác giả đã cố mang hình thức mới cho khổ thơ 6-8 bằng những dấu ngắt một cách chủ ý.

Những dấu ngắt đoạn này có tác dụng khiến người đọc thơ ngừng, hay tiếp tục đọc. Trên hành trình thưởng ngọan, người đọc như chiếc xe. Một ụ mô: Xe dừng lại. Đường thẳng băng, xe cũng nổ máy reo vui. Không cần biết nơi nào bắt đầu, hay nơi nào là điểm cuối. Tác giả đã sắp sẵn trên lộ trình rồi.

Ví dụ:

Tháng dư. Buốt nẻ đôi đằng
Nửa chì mưa đục, nửa băng đá cồn

(Ngoại ô, Cung Trầm Tưởng)

Một dấu chấm làm ngăn nhịp 2 và nhịp 4 của câu đầu. Và sau chữ đằng không có dấu chấm.

Tại sao.

Tôi nghĩ là tác giả có chủ ý. Có thể ông không cần dùng dấu chấm (.). Nhưng mà, khi đọc lên, ý thơ sẽ hoàn toàn đổi khác:

Hay qua hai câu sau của Du Tử Lê, với (….) và dấu hỏi ?

(người từ thế giới bên kia)
thấy tôi không ? đã hồn khuya tượng què

(Du Tử Lê- bài lục bát sau tám năm cho người về)
Hay dấu chấm trong một đọan thơ của Đoàn văn Khánh:

Hai tấm ngắn. Bốn tấm dài
Lầm lì tôi đóng quan tài cho tôi

(Đoàn văn Khánh – Hóa Kiếp tôi)

Tuy nhiên, trong 227 nhà thơ được tôi tìm tòi sưu tập ấy, chỉ có vài tác giả có thơ với dấu chấm phết hiện diện, như một chủ ý, qua một vài ba câu thưa thớt chứ không hầu như toàn bộ như bài thơ của Thành Tôn mà chúng tôi vừa giới thiệu.

Với toàn bài 34 câu, có đến 27 câu có dấu chấm hoặc phết, ngắt câu. Kỹ thuật này dĩ nhiên đòi hỏi nhà thơ có một nội lực thâm hậu.

Thứ hai: Mang kỹ thuật Đường Thi vào áp dụng trong lục bát:


Mang câu 8 chẻ làm đôi, và tạo nên con đường rầy song song, chữ đối chữ… đó là một nét đặc trưng của thơ lục bát Cung Trầm Tưởng. Một số nhà phê bình đã ca ngợi ông như là nhà thơ có công trong việc canh tân thơ lục bát. Ví dụ:


Ngày lăn bóng quá lưng đèo
cây hoen lá thắm, xóm nghèo quán không
cồn trơ biếc núi ngồi trông
sương giăng xóm ngủ, mù buông lũng chiều

thuyền nằm, bến cũng xiêu xiêu
con sông tới giấc mắc triều lên nhanh
hồn tôi cái đĩa thâu thanh
tròn nguyên nét nhạc, trung thành ý ca

đồ rê mi pha xon la…

(Chiều – Cung Trầm Tưởng)

Trong bài thơ của Thành Tôn, chúng ta thấy tác giả đã xữ dụng rất nhiều về kỹ thuật đối chữ này.

Ví dụ:

Quán như địa phủ, nhạc đời nhân gian
….

Quen như thân thể, lạ nào chén ly
….

Mắt nhau một hướng, tình chia mấy trùng
….

Xa nghe lời kẻ, gần chùng dáng ai


Vòng quay nhịp lặp, kim mài giọng quen
….

Khuya, mưng máu chậm. Tình, bầm tim mau
…..


Đặc biệt câu cuối, chúng ta thấy, ngoài việc đối chữ, tác giả còn đối cả dấu chấm, phết.

Không còn chia câu 8 thành hai, mà thành bốn !

Chúng tôi cố gắng tìm kỹ thuật này trong suốt 227 nhà thơ miền Nam mà chúng tôi sưu tập, nhưng không thấy.



Thư ba: Dùng chữ nghĩa rất ấn tượng

Chúng ta đã từng biết nhà thơ Viên Linh được nổi tiếng nhờ những vần lục bát rất ấn tượng của ông.

mối sầu mai phục thân tôi
đi chưa nửa cuộc bỗng rời tứ chi
nghe trong máu chảy rầm rì
xương vi vu rỗng lọt thì truy hoan

(Viên Linh: Về thăm nhà ở Chí Hòa)

Thì với thơ Thành Tôn, ngay hai câu đầu đã gây nên một ấn tượng rất đậm:

Vào đây, ghế quạnh, khuya người
Quán như địa phủ, nhạc đời nhân gian
….

Vào đây nhạc đĩa đầy vai
Dùng chữ vai để tả về một bộ phận trong máy hát thời xưa chuyên vận hành những dĩa hát , thì quả không còn sự ví von, so sánh nào bằng !

Hay dùng chữ sân để ví với lòng mình:

Hồn ta trải gió đầy sân
Tình ta, mây cũng mấy lần thu nao


Thứ tư: Biến những chữ vô sinh thành ra những từ rất sinh động.

Ví dụ hai chữ "thu nao" nếu không có Tình ta, mây cũng mấy lần thu nao, thì chắc không có một ý nghĩa gì hết. Hay nếu dùng thì có vẻ cải lương.

Trái lại “thu nao” trong câu thơ là một lối sử dụng chữ rất tài hoa. Đọc lên, êm tai. Đọc lại, đọc lại, đọc lại thấy càng thấm. Và lòng chùng xuống, mùa thu… mây.. mây mùa thu thì bàng bạc, lòng ta cũng bàng bạc vậy thôi….

Ngay cả hai chữ "Thắp Tình", nhan đề tập thơ mà ông đã bỏ công sức, cố học nghề thợ sắp chữ – để tự tay hoàn thành tác phẩm của mình vào năm 1969 thì cũng đã "lạ lùng" rồi.

Rõ ràng, thơ Thành Tôn đã vượt thời gian và không gian, đi rất xa thời của ông, và là một kiện tướng trong việc canh tân thơ lục bát.

Chúng ta xúyt xoa ngưỡng mộ nhà thơ Tô Thùy Yên vì ông dùng hai chữ rất lạ: "Thắp Tạ" cho tựa đề tập thơ mới nhất của ông ở hải ngoại. Tại sao chúng ta lại không để tấm lòng đến một người lính trẻ ở vùng hai khắc nghiệt, đêm ngày đối diện với chập chùng tai ách, đã nghĩ đến hai tiếng cũng rất lạ không kém: "Thắp Tình" cách đây hơn 40 năm?

Mồng 4 Tết, 2010

trích từ Thơ Đến Từ Cõi Nhiễu Nhương, tập phê bình nhận định thi ca Miền Nam, qua những bài viết trên tạp chí Thư Quán Bản Thảo (Hoa Kỳ): Đặng Tiến, Nguyễn Lệ Uyên, Khuất Đẩu, Trần văn Nam, Lê văn Trung, Luân Hoán, Nguyễn Liệu, Phong Nhã (Trần Phong Giao), Nguyễn Vy Khanh, Trần Doản Nho, Đỗ Hồng Ngọc, Phạm văn Nhàn, Nguyễn Khôi, Trần Hoài Thư


Trần Hoài Thư
Source : damau.org

Musashi, tiếng gầm sư tử trên cô phong đảnh và cuộc lữ miên trường

Musashi, tiếng gầm sư tử trên cô phong đảnh và cuộc lữ miên trường
Nguyễn Minh Vương

Khai đề
Đọc về Musashi đã là một ngộ nhận, viết về Musashi lại là một ngộ nhận lớn hơn. Bởi nếu cái tâm không lắng, khí không uy, thần không động, ta chẳng bao giờ có thể ngộ ra cái huyền âm diệu nghĩa, cái bất khả tư nghì thoái tàng ư mật dưới lớp vỏ ngôn ngữ khô cứng, lạnh lùng, héo hắt kia. Nói cách khác, nếu tâm thức ta không đồng, chân ngôn sẽ rơi tòm vào cái vũng lầy thuộc tầng ý thức lao xao loạn động, tựa những loài tôm tép sủi bọt lăn tăn trên mặt biển mà không biết cái thâm trầm ẩn mật sâu lắng trong lòng đại dương. Cho nên, trong nhà Phật người ta hay nói, Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan (cứ nghĩa đen mà giải nghĩa kinh thì oan cho ba đời chư Phật).

Tuy nhiên, nếu cứ chấp vào đó mà rụt rè sợ hãi, rúc đầu vào cái mu rùa tăm tối thì làm sao ta nghe được cái hoằng viễn cao thâm. Chân lý tuy vô ngôn ẩn áo chẳng thể nghĩ bàn, hễ cứ luận bàn là thực tại chìm vào sa mạc hoang liêu, nhưng chân lý cũng biến hóa kỳ ảo không lường, thị hiện ra theo từng cảnh giới tâm thức của chúng sinh mà phá trừ mầm mống của tham sân si, đồng thời dung nhiếp tất cả những sai biệt đa thù vào trong cái Nhất Như thù thắng. Lúc đó, cái thâm mật ẩn tàng thị hiện thành cái hiển lộ đa phương; cái không thể nghĩ bàn lại trở về xuất hoạt trên đầu ngón tay. Pháp tuy thâm diệu, Dịch tuy rỗng không, Đạo tuy rộng khắp… nhưng lại tùy từng cá nhân mà biến hóa thành trăm phương nghìn kế ảo diệu khôn lường để khắp tất cả chúng sinh, từ hòn đá, cành khô, cây cỏ cũng được hưởng phước huệ lan tỏa từ giọt nước cam lồ.

Cũng thế, dưới góc độ nào đó, ta thấy Musashi quả là một con người siêu việt, một bậc kiếm thánh tuyệt luân, một độc cô cầu bại mà phàm nhân chúng ta không thể với tới được. Nhưng nếu chúng ta dõi theo từng bước đi của ông trong cuộc lữ miên trường vượt qua bóng tối vô minh về đến bến bờ giải thoát thì mọi sinh vật trên thế gian này, từ con kiến đến người nông dân, đến các nhà bác học, đến các vị tu hành xuất thế đều có thể thấy Musashi chính là một nửa của đời mình. Một tác giả nào đó đã viết rằng : “Có lẽ không cần phải nói gì nhiều về Miyamoto Musashi. Nhưng thực sự là tôi không biết rằng có bao nhiêu người ở Việt Nam không biết về nhân vật này. Chỉ cần gõ cái tên này vào một công cụ tìm kiếm nào đó lập tức bạn sẽ nhận được hàng ngàn web site khác nhau viết về nhân vật này bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Có lẽ Miyamoto Musashi là kiếm khách vĩ đại nhất Nhật Bản qua mọi thời đại, nếu không muốn nói là trong phạm vi toàn cầu. Có lẽ đây cũng chính là kiếm sĩ của một nước được nhiều người nước khác biết đến nhất.”

Với truyền thống Đông phương thì Một là Tất Cả và Tất cả là Một. Cho nên, nếu chánh tâm thành ý từ đỉnh đầu đến gót chân trong một công việc, dù cho việc đó chỉ là những việc bình thường như ăn uống, ỉa đái, hít vào, thở ra, giao cấu, làm tình thì ta sẽ ngộ ra được tất cả mọi việc khác. Nói cách khác, một khi đạt được cực ý tối thắng thượng thừa của một công việc, ta sẽ thấu triệt được mọi vấn đề khác như trở lòng bàn tay. Không hẹn mà hò, Musashi cũng chỉ biết có cây kiếm mổ ruột móc gan làm bạn trong suốt cuộc đời, ấy thế mà ông lại thị hiện thành tám vạn bốn ngàn pháp môn trùng trùng điệp điệp phá đổ bức tường vô minh che phủ dấu bèo khiến cho con người mất hướng trở về Cố quận Nguyên thôn. Và từ một trong những pháp môn ấy, Musashi lại thị hiện về đây, trên từng dòng chữ này, để một lần nữa cất lên tiếng sư tử hống, cùng với những kiếm chiêu, lấy vô thế mà tấn công, lấy vô chiêu mà thủ thắng.

Tuy nhiên, cái khó để viết về ông là phải làm thế nào vén mở, khai quang và hiển lộ cái dũng khí hào hùng tinh tấn dũng mãnh trong từng sát na niệm tưởng của ông bằng ngôn từ biểu tượng hạn hẹp. Hơn nữa, có rất nhiều học giả cao minh đã nhiều lần luận bàn phân tích về ông, nên việc tìm ra cái tinh anh thâm mật của ông, nếu không được thực hiện với một tấm lòng khiêm hạ và học hỏi thì chẳng bao giờ có thể đồng thanh tương ứng với cái khí khái anh hùng hiên ngang bất thối chuyển của một con người luôn hướng về bến giác, luôn hướng về cái Nhất Như Thượng Thừa. Dù sao, người viết cũng thắp nén nhang, thành khẩn tụng niệm câu thần chú trong Bát nhã Tâm kinh Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha hầu mong anh linh Musashi một lần nữa thị hiện về tay cầm song kiếm, thi triển những tuyệt chiêu và chiến thắng chính mình. Chúng ta cùng nhau lần giở từng trang sách trong tiểu thuyết Miyamoto Musashi của nhà văn Eiji Yoshikawa do dịch giả Cung Vũ dịch.

1. Thời vô minh.

Mở đầu tác phẩm, văn hào Yoshikawa không đề cập đến tuổi thơ của Mushasi mà lại miêu tả ngay cảnh máu chảy thành sông, xác chất thành núi trong trận chiến ở Sekisahara. Giữa cảnh thê lương chết chóc và âm khí dường như bao trùm mặt đất đó, Takezo mở mắt, hồi tưởng về quá khứ xa xăm và tưởng mình đã trở thành người thiên cổ thì bỗng nghe có tiếng gọi của Mahatachi, thằng bạn chí thân, hắn mừng vô cùng vì biết chắc mình còn sống. Từ đây, hắn bắt đầu đi vào dòng đời bằng năng tính tham sống sợ chết của hắn.

Takezo ra đời vào năm 1584 tại tỉnh Mimasaka, cách Đông Kinh 40 dặm về phía Tây Nam. Thân phụ của là ông Munisai, trước đây là bộ thuộc của sứ quân Shinmen ở Iga. Cha hắn vốn là một kiếm sĩ ngang tàng, đầu đội trời chân đạp đất, trên hòn đảo lớn Kyushu dưới triều đại của Shogun Nobunaga. Chẳng hiểu sao mẹ hắn lại bỏ nhà ra đi ngay từ khi hắn còn nhỏ. Lên chín, vì nhớ mẹ, hắn bỏ trốn theo mẹ, nhưng cha hắn bắt về và cấm hắn không cho gặp mẹ. Thời gian sau, được tin mẹ chết, Takezo bỗng thay đổi tính tình, từ một đứa trẻ đa cảm thành một thằng bé hung dữ và lì lợm nhất làng. Khi hắn 12, 13 tuổi, hắn đã lên võ đài giết chết một kiếm khách khiến cho dân làng phải nể phục. Thời gian sau, người cha nghiêm khắc của hắn đã từng đánh đập hắn tàn nhẫn từ trần, hắn lại càng hung tợn và ghê gớm như một con mãnh thú hoang dại. Cũng nhờ có chị Ogin của hắn can thiệp, nếu không hắn đã bị đuổi ra khỏi làng từ lâu rồi.

Mười tám tuổi, hắn cũng muốn có chút danh gì với núi sông, nên rủ Mahatachi đăng lính. Chẳng may phe hắn lại thất bại, giờ sống sót, hắn cũng chẳng biết phải tính làm sao. Tuy nhiên, bản năng sống thúc đẩy hắn phải can đảm lên đường đi tìm lẽ sống nhưng phải tránh tai mắt của quan quân. Nhờ đó mà hắn gặp mẹ con Oko và thương tích trong người hắn được hai mẹ con chạy chữa bình phục. Để trả ơn và để sống còn, hắn đã đánh chết tên tướng cướp Tenma. Sau trận đấu đó, Mahatachi bỏ Takezo đi theo tiếng gọi ái tình của Oko, Takezo tức lắm, cảm thấy thương tiếc cho Otsu, cô vợ chưa cưới của Mahatachi ngày đêm mong mỏi ngóng chờ. Còn một mình, hắn tìm đường trở về làng, nhưng chẳng may hắn bị binh đoàn của Tokugawa đuổi bắt, hắn phá đường biên giới, giết cả những người samurai để mở đường máu mà thoát thân. Chuyện này kéo theo chuyện kia, khiến cho hắn cứ như con thiêu thân đâm đầu vào chỗ chết mà cứ nghĩ chỉ có làm như thế hắn mới được sống.

Tuy nhiên, hắn cảm thấy phải có bổn phận báo cho cụ Osugi biết rằng Mahatachi con cụ vẫn còn sống, hiện đang ở với Oko. Hắn quyết tâm trở lại gặp cụ nhưng không ngờ, bà cụ đáo để này đã lừa hắn vào buồng tắm bằng những lời dụ dỗ ngon ngọt hiền lành tựa lòng từ mẫu bao la cốt để bắt hắn nộp cho quan quân. Một lần nữa, hắn phải mở đường máu, xuống tay hạ thủ cả dân làng để thoát thân. Càng ngày, hắn càng gây ra nhiều cảnh chết chóc đến rợn người. Việc truy lùng hắn trở nên một việc cấp thiết và hệ trọng đến nỗi, quan binh phải huy động cả dân làng bỏ việc cày cấy sản xuất để tìm phương kế bắt hắn. Về phần Takezo, hắn như con thú dữ bị dồn vào tử địa nhe răng giơ vuốt sẵn sàng cắn xé bất cứ thế lực nào cản trở hắn sống còn.

Giữa lúc dân làng và quan binh vô kế khả thi, thiền sư Takuan cùng với Otsu lãnh trách nhiệm đi bắt Takero. Với nguyên lý lạt mềm buộc chặt, nhu nhược thắng cương cường, họ không đánh mà thắng, không đổ một giọt mồ hôi mà bắt Takezo mang về trình diện trước dân làng. Dân làng và quan binh đề nghị giết hắn để làm gương, nhưng lão sư không chịu, bắt treo lên cây tùng bách sau chùa Shippoji cho đến chết. Sự đời tưởng thế là xong, tiếng sáo của Otsu đã bắt được hắn lại chính là người leo lên cây tùng bách trong đêm mưa gió bão bùng để cứu hắn khỏi cái chết. Trong cái đêm ấy, hai kẻ đầu xanh bỏ làng ra đi, có điều lòng mỗi người mỗi khác, Otsu mong mỏi neo đời mình vào bờ vai Takezo, nhưng hắn thì lại có hoài vọng riêng cho mình nên không muốn ràng buộc ai. Hơn nữa, hắn phải cứu chị nên phải chia tay Otsu ngay tại cầu Hanada ngoại ô thành Himeji. Và cũng từ đó, phải mất mấy năm trời, họ mới gặp lại nhau.

Thuật lại một cách tỷ mỉ về những hành động dã man thú tính của Takezo không phải để hạ thấp hay phỉ báng hắn, nhưng là để cho chúng ta thấy cái năng tính tiềm tàng nơi mỗi con người, đồng thời cũng cho thấy rằng, Takezo cũng từ phân cứt bùn lầy mà nở đóa sen thơm lừng giữa khu rừng thiêng thánh đông phương đầy kỳ hoa dị thảo. Phải chăng con đường tiến tới thiên đàng buộc ta phải kinh qua địa ngục? Phải chăng muốn làm một hài nhi thơ bé bụ bẫm trinh trong buộc ta phải tắm mình trong những dòng kinh nguyệt nhớp nhúa hôi tanh? Phải chăng cây tùng cây bách, nó vươn cao chịu gió cuồng mưa loạn là nhờ bộ rễ bám sâu vào lòng đất tối tăm lạnh lùng? Chẳng biết từ bao giờ hai cái đối cực, hai cực đối nhau cứ huyền đồng xoắn xuýt, ấp ôm giao phối, áp má kề vai, mang thai ốm nghén rồi sản sinh tồn thể thị hiện khắp nẻo nhân gian. Cái lạ là hễ kẻ nào được gọi là thánh tăng, là bồ tát tỏa sáng khắp lục đạo thì y như rằng vị ấy mang trong mình cái âm chất lạnh toàn máu xương. Cái năng tính, cái âm chất ấy không chỉ thị hiện trong văn học tiểu thuyết mà ở thực tế đời thường, lịch sử cũng đã ghi lại cho ta những tấm gương chói sáng đó.

Với văn học, gần đây trên tạp chí Da Màu, tác giả Trần Thiện Huy đã cho ra đời một truyện ngắn mang tựa đề Cái Ác. Câu chuyện kể về một con người sống bằng nghề ăn trộm để nuôi hắn và một đứa trẻ thơ. Có thể nói rằng, hắn là một kẻ có cái tâm bất thối, không động đậy trước nguy cơ của tám ngọn cuồng phong thổi đến. Có như thế hắn mới ung dung tự tại lấy chiếc áo khoác của viên chức trên toa xe lửa mà lòng không móng khởi loạn tâm. Hay chăng chỉ khi nào làm việc ác với cái tâm bất động thì ta mới có thể làm việc lành mà không biết mình làm việc lành, nói cách khác là thi ân bất cầu báo sao? Trong cái kiếp sống giang hồ đó, nhiều lúc tên trộm cũng tự hỏi “tại sao mình lại chọn cuộc sống này, lại phải đấu tranh điên cuồng đến kiệt lực với tất cả mọi người, lại phải sợ hãi và gây sợ hãi?” Nhưng tất cả những câu trả lời đều rơi tõm vào hư vô sa mạc, chẳng có lời đáp nào khả dĩ lay chuyển được con người tên trộm. Điều tên trộm cảm thấy là sau khi cho đứa bé ăn và nhắm mắt ngủ ngon, hắn cũng yên lòng nhắm mắt, đánh một giấc dài tới sáng. Cũng thế, Takezo cũng tự vấn lương tâm mình trong những lúc sống chui sống nhủi tựa như con chó ghẻ giữa bãi tha ma. Takezo cũng chẳng hiểu tại sao mình lại hành động như vậy, hắn muốn làm người tốt, nhưng trời xui đất khiến, ma quỷ dẫn đường thế nào mà hắn luôn cảm thấy rằng nếu không giết họ, tất họ sẽ giết mình. Cứ thế hắn trầm mình xuống, cong người lên, phùng mang trợn mắt, giết giết giết… cho hết những kẻ cản đường hắn đi.

Hơn nữa, cái âm chất ấy cũng hiển lộ trong rất nhiều tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung. Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Tạ Tốn là hiện thân của cái năng tính, cái âm chất đến rợn người, khiến cho võ lâm một thời rơi vào cảnh máu chảy thành sông, xương chất đầy đồng, hận thù chồng chất, cao ngất trời không. Cuộc đời của Tạ Tốn là một con mãnh sư văn võ song toàn, nhưng định mệnh khiến xui giăng mắc khiến cho cuộc tồn sinh của lão Tạ phải gầm lên những tiếng bi hùng đau thương buốt lạnh cả một vùng thái hư. Định mệnh đó đã đẩy lão vào cảnh không đội trời chung với sư phụ Thành Khôn, người mà lão coi như cha ruột của mình, vì chính Thành Khôn đã bức hiếp vợ hiền và giết chết luôn đứa con duy nhất của lão. Giữa cơn thống hận phủ kín càn khôn đại địa và nhất là giữa cảnh hoang liêu tịch tĩnh trên Băng Hỏa đảo, Tạ Tốn trong cơn cuồng sát đã nghe thấy tiếng trẻ thơ cất lên giữ hiu quạnh hoang sơ. Chính cái anh nhi chi tâm ấy tựa cái im lặng sấm sét chẻ đôi tâm thứ hận thù ngàn năm của lão và từ đó Tạ Tốn trở thành người cha nuôi mà suốt đời Vô Kỵ thờ kính. Cũng thế, Takezo trong cơn quẫn bách, lòng sôi căm hờn, đói khát nhục thân, tái tê tồn thể đã không cưỡng được tiếng sáo du dương của Otsu và ngọn lửa ấm áp của thiền sư Takuan, nên hắn đã tự nguyện đưa tay chịu trói, phó mặc sinh mạng mà mới đây hắn điên cuồng bảo vệ cho vị thiền sư xa lạ.

Với đời thực, ngay ở nước Nhật, ni sư Satomi Myodo cũng là một mẫu gương cầu đạo với lòng tinh tấn dũng mãnh. Bà khinh khi cái truyền thống dâu hiền vợ thảo bao đời của người Nhật. Nhưng trên bước đường đời, mặc dù khinh bỉ coi thường những lời ong bướm, vậy mà bà lại thất thân với anh chàng sinh viên cùng lớp đã bao lần bị bà chối từ. Mang trong mình mặc cảm của kẻ không chồng mà chửa hoang, bà bỏ về quê sống trong tủi nhục với cha mẹ. Thời gian sau chàng sinh viên đó biết tin cũng về quê cưới bà và có thêm mụn con. Sự đời chẳng yên, bởi từ thâm sâu trong lòng, bà không muốn lập gia đình. Sau khi chồng bỏ về thành Tokyo vì bất đồng với cha, bà đem đứa con lên Tokyo để tiếp tục học đại học. Ở đây, bà phải vào nhà thương điên chữa trị vì bà không chịu nổi cảnh mẹ chồng bắt đi đứa con của bà. Ra khỏi nhà thương điên, bà đi làm đào kép, gặp một tên đầu đường xó chợ, bà rủ hắn đến tỉnh Nagoya và xây dựng một cuộc đời mới. Sống với hắn, bà ngày càng gắt gỏng, chẳng mấy khi hạnh phúc, nên lần mò làm việc cúng Phật lễ chùa. Chẳng thỏa mãn, bà tìm gặp một lão sư Thần đạo và quyết tâm tu học theo sự hướng dẫn của ông. Nhờ đó, bà tiếp xúc được với các linh hồn ở cõi âm và trở thành một cô đồng (Miko) nổi tiếng khắp vùng Hokkaido. Dù đã làm được rất nhiều việc ích lợi, nhưng tâm bà vẫn không an nhiên tự tại. Cuối cùng phải nhờ đến Thiền sư Bạch Vân, bà mới đạt được kiến tánh (Kendo) và trở thành ni sư lỗi lạc của thiền tông Nhật Bản.

Cái điểm căn cốt ở đây chính là sự phản kháng, sự nổi loạn của Satomi cũng như của Takezo trước những thói tục của đời thường. Họ luôn mang trong lòng ý thức vượt thoát những cái nhầy nhụa, cái hư vô, cái bầy đàn, cái nhạt nhẽo của đoàn lũ người. Cái khẩu khí của con mãnh sư thoái tàng ư mật trong cõi lòng họ chừng như lúc nào cũng muốn gầm thét cho rung chuyển núi rừng. Hơn thế nữa, nó còn biểu hiện rất rõ trong con người của vị thánh tăng Tây Tạng, từ một lưỡi tầm sét han gỉ trở thành một viên ngọc chói sáng khắp sáu nẻo luân hồi. Vị ấy chính là Jetsun Milarepa, hành giả Du-già lẫy lừng nhất xưa nay.

Sở hữu một quá khứ chất đầy hận thù, Milarepa đã làm cho dân làng, nhất là vợ chồng ông chú bà thím đã cướp gia tài của chàng phải thất điên bát đảo do những phù phép của chàng gây ra. Một trong những phù phép đó là chàng đã biến những con ngựa trong chuồng thành những con nhện độc, rắn hổ mang và bò cạp khổng lồ làm chị hầu bếp hoảng sợ thét lên. Những con ngựa sợ quá kéo sập ngôi nhà làm chết 35 thực khách. Thấy việc đó, mẹ chàng rất hoan hỉ cho rằng đây là hạnh phúc nhất đời bà. Còn ông chú và người trong làng tìm đủ mọi cách giết hại mẹ con chàng, nhưng không thành vì phần nhiều sợ huyền thuật của chàng. Sau đó, chàng tiếp tục học thêm huyền thuật và đã đặt linh phù niệm chú tạo ra một trận bão đá ầm ầm đổ xuống ruộng nương hoa màu đang độ gặt hái. Dù đã có phép thuật cao thâm, dù đã trả được mối thù di hận ngàn năm, nhưng sao Milarepa vẫn cứ thấy bất an. Ông kể : “Sự bất an là đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này. Nếu tôi ngồi, thì lại muốn đứng dậy đi lui đi tới. Nếu tôi đang đi thơ thẩn, thì lại muốn ngồi. Tôi bị mất ăn mất ngủ, nhưng dù thế nào đi nữa, tôi cũng không thể bày tỏ cho thầy nghe, mặc dù vẫn hầu hạ thầy nhưng tôi luôn luôn tìm cơ hội thuận tiện xin phép từ biệt ông để sống cuộc đời tu hành.” (Rechung, Milarepa Con Người Siêu Việt, dịch giả Đỗ Đình Đồng, tr. 27)

Tình cảnh khốn khổ bất an đó cũng đã từng dằn vặt hành hạ cho Takezo khi hắn sống như con thú trong rừng. Linh hồn máu xương của hắn còn hoang liêu cô quạnh hơn vạn lần tiếng than van của sa mạc điệp trùng. Nước và bóng dâm bây giờ trở thành lẽ sống của hắn. Tận cùng của tuyệt lộ, người ta sẽ trực kiến được đạo tâm. Người xưa cũng đã nói như thế : “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.” (Đi đến nước cùng non tận chỗ. Tự nhiên được báu chẳng về không). Cái năng tính, cái chất âm như những dòng máu tuôn trào phún thạch cuốn phăng đi hết tất cả những cái được xem là lũy sắt thành đồng, lâu đài thành quách của luân lý, đạo đức, phong tục, tập quán, tôn giáo… đã rêu phong phủ khắp lối đi nẻo về của con Giun Tinh Thể. Từ đó, kẻ tài hoa sáng tạo ra độc đạo cho riêng hắn và chỉ mình hắn có thể vượt qua. Không thể có sáng tạo nếu ta hâm hẩm, hời hợi, yếu mềm. Sáng tạo chỉ xuất hoạt khi ta cứng rắn, lì lợm trèo lên núi cao vì tất cả những kẻ sáng tạo đều cứng rắn (Alle schaffenden aber sind hard)

2. Huyền nghĩa của cái ác

Trên đây, chúng ta đã lược sơ lại những hành động dã man đầy dục tính của Takezo và những nhân vật khác cả trong tiểu thuyết lẫn trong đời sống thường nhật. Tiếp đến, chúng ta thử tìm hiểu xem, tại sao những con người dã man, thú tính, dâm dục như thế mà lại có thể giác ngộ cảnh giới tối cao bất khả tư nghì. Do đó, truy tìm ý nghĩa ẩn sau những cảnh máu chảy đầu rơi, dục tình thác loạn như thế trong các vị chứng ngộ này quả là một việc không tưởng nếu người viết chưa một lần chết đi hoặc lần trải nghiệm cái sự ác đó. Vậy đâu là huyền nghĩa của cái ác?

Đối với tất cả tôn giáo cũng như luân thường đạo lý xã hội bình dân… tất cả đều mong mỏi diệt trừ cái ác, cổ xúy cái thiện. Cho nên, tất cả những thành quả lao động của con người, từ tay chân cho đến trí não đều mưu cầu cái thiện và tiêu trừ cái ác càng nhiều càng tốt. Thậm chí con người sẽ không nghỉ yên cho đến khi nào manh mối, bóng dáng của sự ác còn hiện hữu trên thế gian này. Có ai trong chúng ta không căm phẫn Thị Màu, Tú Bà, Sở Khanh, Lý Thông, Tào Thị, Trịnh Hâm…??? Có ai trong chúng ta lại không chạnh lòng, cảm thương rơi lệ cho số phận của Thị Kính, Thúy Kiều, Thạch Sanh, hai chị em Nghi Xuân và Tuấn Lực, Lục Vân Tiên…??? Tất cả những tình cảm đó đều được xã hội con người cho là tốt đẹp, là lẽ phải. Nó đúng với mọi thời đại, mọi quốc gia và mọi dân tộc. Satan, ác quỷ là cái mà ngay cả Thần Thánh cũng phải tuyên chiến diệt trừ, huống hồ là con người chúng ta, một sinh vật nhỏ bé, yếu đuối luôn bị ám ảnh mặc cảm bị thiến trước thế lực vô hình.

Cái tâm thức phân biệt nhị nguyên thần thiện thần ác, người tốt kẻ xấu đó lại đâm chồi nảy lộc, ăn sâu bám chắc vào tận tâm địa của hơn hai ngàn năm văn minh Tây Phương và hiện nay nó đang lan tràn khắp cả địa cầu. Tinh thần đó còn manh nha vượt không gian thời gian bay đến cung trăng, đến các giải thiên hà khác để tìm một Thượng Đế, Đấng vô cùng nhân thiện, hay thương xót con người. Cụ thể một phi hành gia sau khi trở về trái đất trong một chuyến du hành vũ trụ đã được hỏi rằng : Anh có thấy Thượng Đế không? Ý thức đó vô hình chung trở thành một con dao hai lưỡi quay lại cắt cổ chính con người chúng ta. Việc tồn tại một Thượng Đế hữu ngã không những được chính Đức Phật phủ định mà còn được khoa học, nhất là ngành vật lý lượng tử từ chối. Hơn thế nữa, niềm tin đó nếu không được các bậc minh sư hướng dẫn sẽ trở thành mù quáng, mê tín làm tổn hại quá trình tinh tấn của chính mình và di hại cho người khác.

Tuy nhiên, tiêu diệt cái tận ác, cổ súy cái tận thiện không phải là một việc mà phàm nhân hữu tình có thể làm được. Chỉ có những bậc thánh nhân mà thân tâm đã vượt thoát vòng luân hồi mới có thể thấu triệt được đâu là ác đâu là thiện và nhờ đó có thể điều phục, hóa giải, dung nhiếp cái ác thành cái thiện, cái giả thiện thành cái thiện chân.

Như thế, đâu là ý nghĩa của cái ác? Tại sao con người phải sợ hãi và phủ định nó nhiều đến thế?

Theo tín lý Kitô giáo, tội ác, nhất là tội giết người, là một trọng tội. Bất cứ ai phạm tội này đều phải sa địa ngục. Vì con người, cho dù họ có tệ hại, tàn ác, chó má đến đâu cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, nên không được giết người với bất kỳ lý do gì. Trong mười điều răn của Kitô giáo, cấm giết người là giới răn đứng hàng thứ năm. Đức Giêsu còn nói : “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5,21-22).

Còn theo Phật giáo, Đức Phật đã ví kiếp người quý hiếm đến nỗi tựa như con rùa mù ngàn năm mới nổi lên mặt nước giữa đại dương mênh mông một lần và còn phải chui đầu vào một cái vòng tròn lênh đênh vô định. Làm người trong Phật giáo thật chẳng có gì bằng. Hơn nữa, trong sáu nẻo luân hồi là Chư thiên (Tàvatimsa), Người (Manusoa), Atula (Asurayoni), Ngạ quỷ (Petayoni), Súc sinh (Tiracchanayoni) và Địa ngục (Niraya) thì cõi Người là nơi dễ tu tập giải thoát hơn tất các cõi kia. Bởi lẽ, cõi khổ thì u mê tăm tối triền phược liên miên bất tận đến nỗi rất ít có cơ hội thức tỉnh, còn cõi lạc thì quá sung sướng thoải mái nên ít nghĩ đến chuyện giải thoát. Chỉ có con người sống trong cảnh sướng khổ vui buồn đắp đổi đan bện cuống quýt chằng chịt lấy nhau, khiến cho ‘người ngoài cười nụ người trong khóc thầm’ hay như ‘nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào’ mới tìm cầu tinh tấn giải thoát.

Do vậy, giết người theo Kitô giáo là phá hoại công trình của Thượng Đế, nói khác là tiếm quyền tạo dựng của Thiên Chúa. Ai phạm tội giết người, tất sẽ bị phạt ở hỏa ngục. Đối với luật lệ của xã hội, bất cứ ai giết người cũng đều phải bị tù chung thân hoặc xử bắn. Luật giang hồ là một mạng đổi một mạng. Còn theo Phật giáo là tiêu diệt cơ hội ngàn năm, điệu kiện tốt nhất cho một chúng sinh thoát khỏi trầm luân khổ lụy trong lục đạo. Chính vì thế, Lạt Ma Dugpa, một vị tu chứng nổi tiếng ở Tây Tạng, mới cưỡng bức cô sơn nữ để giúp vong linh của một ông sư trụ trì ngôi chùa lớn, nhưng không lo tu hành tinh tấn mà ăn thiếu Tam đề, uống không Ngũ quán, không ý thức về sự vô thường, để giúp ông ta tái sinh vào cõi người.

Lạt Ma nói : “Vì lòng thương xót một kẻ tu hành ta mới rời động đá để cứu cho vị này đầu thai vào kiếp người, bởi thế ta mới hành động lỗ mãng như vậy.” (A. David Neel, Huyền Thuật Và Đạo Sĩ Tây Tạng, Nguyên Phong dịch, tr. 38).

Có điều, hình phạt của Phật giáo không sơ cứng như các tiêu chuẩn khác mà được giải thích bằng nguyên lý Nhân quả. ‘Ai gieo giống nào ắt sẽ gặp quả đó.’ (Tạp A hàm). Với nguyên lý Nghiệp báo, con người có bay lên trời hay lặn xuống biển khơi cũng không thoát khỏi nghiệp lực. Luồng nghiệp lực này sẽ tác động nên mỗi chúng sinh trong từng hành động của họ từ kiếp này đến kiếp khác. Đồng thời chính bản thân họ được hồi đáp đúng như những niệm tưởng và hành động của họ. Do đó, không có chuyện thay đổi điều này điều kia, cũng chẳng có chuyện phán xét thưởng phạt công minh từ quan tòa hay vị thẩm phán tối cao nào hết. Chỉ có nội tâm con người mới có đủ thẩm quyền và trách nhiệm phán xét chính mình.

Ngay từ thời niên thiếu, Takezo cũng mơ mộng thành một kiếm sĩ siêu quần bạt chúng hành hiệp dưới trướng một lãnh chúa nào đó để danh dự gia đình tông môn được hồi phục. Nhưng trong quá trình thực hiện cơn mơ đó, hắn bị lạc vào vòng xoáy vô minh. Sau trận Sekigahara, hắn bị ám ảnh bởi mặc cảm bị ruồng rẫy, bị săn đuổi như thú vật. Từ đó hắn chỉ biết chém giết để bảo vệ mạng sống của mình và đẩy hắn vào cái vòng luẩn quẩn hiếu sát hiếu sinh. Hắn không ý thức được sinh mạng là một cái gì đó vô cùng quý giá, là cơ hội duy nhất để giác ngộ mà hành động ngu xuẩn theo bản năng mọi rợ.

Cứ theo lẽ thường, những hành động ngu xuẩn đó đáng ra phải bị pháp luật trừng phạt. Nhưng không hiểu sao Takezo lại thoát chết dù viên đội trưởng đã bắt chị hắn để uy hiếp và huy động cả dân làng để bắt hắn. Việc này khiến ta liên tưởng tới Raskolnikov trong Tội Ác Và Trừng Phạt của Dostoievski. Từ lúc giết mụ chủ già cho đến lúc đi tự thú, không ai mảy may nghi ngờ Raskolnikov chính là hung thủ dù chàng có những biểu hiện vô cùng rõ nét. Và chính bản thân chàng cũng không hiểu tại sao mình lại giết người và phi tang một cách êm đẹp như thế.

Phải chăng Yoshikawa và Dostoievski đều cho rằng tất cả những thưởng phạt từ bên ngoài như pháp luật, luân lý, khen thưởng, tù đày, thiên đàng, hỏa ngục không những vô ích mà còn phản tác dụng. Bắt bớ, tù đày chỉ khiến cho kẻ phạm tội tự cho mình trắng án với xã hội và mơ tưởng trả thù lại những cái mà xã hội đã hành hạ nó. Nguyễn Hữu Hiệu đã viết : “Kẻ tội phạm nổi loạn chống lại xã hội, thù ghét xã hội sai lầm. Hình phạt mà xã hội bắt nó phải chịu chỉ khiến nó tự coi mình như kẻ đã được xá tội, trắng nợ với xã hội.”

Trải nghiệm này cũng được người viết kinh qua trong những dịp đi xưng tội trong Kitô giáo. Vì tin vào một Thượng Đế công bình thưởng phạt, nên giáo dân chỉ đến tòa giải tội để tìm an ủi bằng những lời khuyên bảo nhẹ nhàng của hàng giáo phẩm. Việc đó khiến cho kẻ tội nhân cảm thấy mình sạch tội một cách dễ dàng. Nếu như những hình phạt khổ sai chung thân là một thái cực rút tỉa nhựa sống con người và làm cho nó thêm lì lợm, chai cứng… thì những lời tha tội rẻ tiền lại là một thái cực khác dung túng cho những hành động tội ác. Tha tội một cách dễ dàng vô tình lại tạo ra một tâm lý phạm tội một cách dễ dàng. Cái vòng luẩn quẩn tha-phạm, phạm-tha đó dần dà trở thành một tấm bình phong, một chiếc phao cứu hộ để cho những kẻ lười biếng, dê cừu nương tựa, bu bám hút máu xương tinh thể ẩn tàng thâm mật của chính mình và người khác. Xưng tội chẳng khác gì con rắn tự cắn đuôi mình.

Hơn thế nữa, cái ý thức thấy mình sạch tội sau những lần xưng thú khiến con người thận trọng, ti tiện một cách hèn nhát. Chính cái sự thận trọng, ti tiện hèn nhát đó lại còn kinh tởm gớm giếc hơn những hành động tội ác. Paul Valery đã nói : “Thực ra, thà chúng ta làm điều ác còn hơn là tư tưởng một cách ti tiện nhỏ nhen.” Dù vậy, những kẻ mà đánh giá mình theo một bảng giá trị ngoại tại nào đó lại hay có ý tưởng mình là kẻ đức hạnh và có lòng xót thương cho những ai vi phạm bảng giá trị đó. Nhưng đối với Dostoievski thì họ chính là những kẻ nhầy nhụa bỉ ổi nhất. Ông nói qua nhân vật Raskolnikov: “Ôi những con người bản tính hèn hạ! Tình yêu của chúng giống hệt hận thù… Ôi! Tôi thù oán chúng.” (Tội Ác và Trừng Phạt, tr. 339). Osho cũng khẳng định : Tình yêu của chúng chỉ là mức độ căm thù giảm đi chút ít. Chẳng có cái gì gọi là tình yêu thực sự, tình yêu vén mở bức màn vô mình trong những kẻ đức hạnh như thế.

Thế thì đâu là phương thế khả dĩ giúp cho nhân vật của mình bất tử trong vòng thị phi hư thực? Vì cớ gì mà hầu như tất cả các thánh nhân, đặc biệt là đức Phật đều đặt nổi khía cạnh tự lực tinh tấn dũng mãnh trong tiến trình giải thoát? Chính Ðức Phật đã tuyên bố một lời vừa là một giáo lý răn dạy đệ tử, vừa là lời trăn trối của một bậc Ðạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình sau khi bậc Ðạo Sư viên tịch: “Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác …” (trích từ Thích Minh Châu, Hãy Tự Mình Thắp Ðuốc Lên Mà Ði.) J.Krishnamurti, một hành giả vĩ đại cũng đã nói : “Mỗi người phải được tự do để trở thành ánh sáng cho chính mình. Ánh sáng này không thể nhận được từ người khác, cũng không thể thắp lên bằng ngọn nến của người khác. Nếu bạn thắp bằng ngọn nến của người khác, nó chỉ là ngọn nến, nó có thể bị thổi tắt.” (J. Krishnamurti, Cuộc Đời và Tư Tưởng, tr. 1)

Với chiều hướng đó, Yoshikawa đã không để cho viên đội trưởng bắt được Takezo. Trái lại, giống như Dostoievski để cho Raskolnikov tự mình đi đầu thú, Yoshikawa cũng bắt nhân vật của mình buông đồ đao, hai tay quy hàng mà lần mò đến bên đống lửa của thiền sư và tiếng sáo của Oshu chịu tất cả hình phạt. Điều đó chứng tỏ rằng chỉ có sự trừng phạt của nội tâm của mình dành cho chính những việc mình làm mới có đủ khả năng hoán chuyển con người. Ngoài bản án tuyên bố từ tâm lòng, không có một phương thế ngoại tại nào khả dĩ giải thoát toàn triệt con người. Chỉ khi nào chính bản thân hắn tình nguyện chấp nhận án phạt, khi đó xã hội mới thực sự thoát khỏi những toan tính phá hoại của kẻ nổi loạn, điên khùng. Kim Ki Duk cũng xây dựng huyền nghĩa của sự ác trên nhân vật chú tiểu trong bộ phim Xuân Hạ Thu Đông. Sau khi giết vợ, chú tiểu trở về với sư phụ để trốn chạy nhà cầm quyền. Khi hai viên cảnh sát đến bắt, hắn điên cuồng cầm dao chống trả. Chỉ khi sư phụ nhắc hắn tiếp tục khắc xong bài Bát Nhã Tâm Kinh : Sắc bất thị không, không bất thị sắc, hắn mới đưa tay cho hai viên cảnh sát chịu trói. Nếu tinh ý, khán giả sẽ nhận thấy lời giải đáp của tác giả bộ phim khi quay cảnh hai viên cảnh sát dùng súng lục nhắm bắn lon beer đang nổi trên mặt nước. Họ là chuyên viên cảnh sát mà bắn hoài không trúng, trong khi thiền sư chỉ cần một cú ném duy nhất là hòn đá trúng ngay lon beer.

Nói tóm, chỉ có sức mạnh nội tâm mới có đủ công lực bắn phá tội ác. Dù hắn chưa bị tố cáo, chưa bị xét xử, chưa chịu hình phạt, nhưng những hình ảnh về những việc làm gớm guốc, bẩn thỉu, những hành động đổ máu biến thành những con dấu nung đỏ thích lên trán, dán vào mặt, in vào tay khiến cho kẻ nổi loạn sờ đâu cũng thấy máu, ngồi đâu cũng thấy thịt xương chất chồng, nằm đâu cũng thấy ánh mắt kinh hoàng của những nạn nhân trong lúc hấp hối. Những ám ảnh kinh hoàng đó nhiều đến nỗi hắn chẳng còn có một hơi thở nào an lành, thư thái cả. Từ đó, hắn cảm thấy toàn thể thế giới chung quanh đều xem hắn như kẻ tử thù. Nghe tiếng một con mèo đụng nhẹ chiếc lá khô, hắn cũng nghĩ rằng có người tấn công mình. Chính những bản án đó cưỡng ép kẻ nổi loạn, thúc ép hắn phải làm một cái gì đó để được an tâm, tịch tĩnh, nghe lại tiếng nói của mọi người và hòa mình vào đời sống của mọi người.

Tuy nhiên, cái cảm giác cô đơn hư vô trống rỗng len lỏi vào tận máu xương tinh thể vẫn chưa đủ mãnh lực để kẻ nổi loạn quyết tâm vượt thoát vòng luân hồi. Cần phải có thêm một sự khinh bỉ của những kẻ đức hạnh phỉ nhổ thêm vào tội ác của kẻ nổi loạn khiến cho hắn cùng đường bí lối. Cảm giác cô đơn mưng mủ, tấy sưng và nổ tung tựa cuồng phong bão tố khạc nhổ vào những ti tiện nhỏ nhen tầm thường của đám người đức hạnh hèn hạ, suốt ngày khom lưng cúi mình để mưu cầu những ích lợi nhỏ nhen. Zarathustra đã nói : Đức hạnh đích thực chính là những kẻ ngồi yên trong vũng sình lầy lội. Trong cái đầm lầy lội đó, kẻ tài hoa bị bùn lầy cứt đái ngấm vào da thịt, bị dế giun dòi bọ đục khoét máu xương. Tồn thể bị bức bách khôn nguôi, máu xương bị cày ải nát tan, người không ra người, quỷ không ra quỷ, ma không ra ma. Sự khủng hoảng tăm tối cô đơn buồn phiền tủi nhục đó không cho phép hắn dùng lý trí để toan tính giải thoát cho mình mà chỉ còn cách chấp nhận rồi từ đó vươn mình lên tựa như bông sen nở giữa mùi hôi tanh của bùn lầy. Á thánh Mạnh tử đã từng nói : “Trời sắp giáng đại mệnh cho ai, tất bắt người đó óc mỏi, gân nhừ, tim héo, phổi mòn, đủ chiều khốn khổ, bách chiết thiên ma, làm cho người đó động lòng đứng dậy mà lớn lao lên.”

Tiếp đến chúng ta thử xem Takezo đã vượt thoát bóng tối vô minh để cất tiếng sư tử hống trên cô phong đảnh như thế nào.

3. Thoái tàng ư mật

Khi đưa tay cho thiền sư Takuan trói, Takezo đã chấp nhận hồi đầu thị ngạn. Một sự chấp nhận định mệnh đã an bài cho mình. Sự chấp nhận đó dù được thôi thúc bởi mong muốn được thoát khỏi cuộc sống bị săn đuổi, căm ghét như con thú dữ, nhưng vẫn tàng chứa mong muốn được che chở, được thứ tha từ một quyền năng ngoại tại. Takezo đủ dũng khí để giết người nhưng hắn chưa đủ nghị lực để tự giết chính mình, tức là buông xả cuộc đời của mình vào dòng nghiệp lực rồi từ đó an nhiên tịch tĩnh đứng lên giữa cõi vô thường phù du hư huyễn trong từng sát na niệm tưởng của hắn. Hắn vẫn khinh mạng sống người và trọng mạng sống của mình. Hắn toan tính lợi dụng lòng từ bi của nhà sư để chạy tội với dân làng. Do đó, khi bị treo trên cây tùng bách sau chùa Shippoji, hắn đã nguyền rủa Takuan là đồ khẩu phật tâm xà, đồ giả nhân giả nghĩa, thằng đầu trọc hôi thúi… Cái năng tính một khi được sắp xếp bởi lý trí thì chỉ có thể dẫn đến trầm luân trôi nổi trong biển sinh tử đến vô lượng kiếp. Henry Miller đã nói : “Những kẻ tin vào sự toàn năng của công việc và của trí thông minh mãi mãi chỉ gặp những thất bại do những biến cố hư ảo khôn lường gây ra.”

Sau những toan tính thất bại, năng tính trong con người hắn lại nổi lên, hắn cong người vùng vẫy làm rung chuyển cả cây đại bách. Nhưng càng giẫy giụa, sợi dây càng xiết chặt. Trên bầu trời, dường như cũng phẫn uất, giận dữ trước những hành động điên rồ của hắn nên đổ mưa như trút, lại còn sấm chớp bão bùng kinh thiên động địa khiến cho cả đất trời vũ trụ càn khôn tăm tối mịt mù. Thêm vào đó, những lời mắng chửi của Takuan như những mũi dao khoét vào quả tim thương tích của hắn. Takuan nói : “Sự cuồng nộ của ngươi chỉ do lòng hung bạo mà ra, vì xúc cảm nhất thời mà có, không phải là sự phẫn nộ của người vì thấy điều bất bình mà giận dữ. Sự phẫn nộ chỉ đáng kể khi nó bắt nguồn từ một niềm bất mãn tinh thần. Giận những chuyện không đâu là cái giận của đàn bà, không giải quyết được gì hết !” Ông nói tiếp : “Giãy giụa bao nhiêu cũng chẳng làm cây gẫy được mà thế gian này đâu có sứt mẻ đi chút nào đâu?”

Thật vậy, tất cả những ý tưởng nổi loạn hay thăng tiến thế giới của một cá nhân nào đó đều chỉ là hoa đốm giữa trời không. Thành bại được mất có không đều giống như những bọt nước nhạt nhòa giữa lòng đại dương bao la. Mọi cố gắng nỗ lực đều chẳng thay đổi gì được hết. Thời Tam quốc là một giai đoạn vô cùng nhiễu nhương, đói khổ ở Trung Hoa. Con người chỉ có thể sống còn nếu hắn biết mánh mung, gian giảo, lợi dụng, thú tính, tiểu nhân. Trái lại, hắn chỉ làm mồi cho quạ tha thú đớp. Do đó, bao nhiêu sức lực trí tuệ của con người đều tập trung vào chém giết, hạ bệ lẫn nhau. Những cuộc chém giết đó nhiều đến nỗi đâu đâu cũng thấy xác người, đâu đâu cũng thấy mùi xú khí tử thi bốc lên nồng nặc. Thế nhưng sông vẫn chảy, nước vẫn trôi dầu có đầy xác thúi máu tươi, đầu có đầy ngạ quỷ lang thang. Dương Thận, đời nhà Minh, khi viết bài Lâm Giang Tiên cũng cho ta thấy tích chất hư ảo giữa những cảnh lồi da xáo thịt giữa cuộc đời. Tác giả viết như sau :

“Cổn cổn trường giang đông thệ thuỷ

Lãng hoa đào tận anh hùng

Thị phi thành bại chuyển đầu không

Thanh sơn y cựu tại

Kỷ độ tịch dương hồng

Bạch phát ngư tiều giang chử thượng

Quán khán thu nguyệt xuân phong

Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng

Cổ kim đa thiểu sự

Đô tiếu phó đàm trung.”

Hoa Sơn dịch :

Nước Trường Giang về đông chảy xiết

Sóng cuốn trôi đi hết anh hùng

Đúng sai thành bại hóa không

Thanh sơn một dãy hoài cùng tháng năm.

Trải mấy độ tà dương nguyệt khuyết

Bạc trắng ngư tiều, đảo trên sông

Gió trăng thu lại xuân nồng

Một bầu rượu đục tương phùng hỉ hoan

Xưa nay muôn sự hợp tan,

Không ngoài cuộc rượu nhân gian tiếu đàm.

(Nguồn: Hoa Sơn Trang)

Ý thức được cái hữu dũng vô mưu của mình, nói cách khác chính là cái sức mạnh của một con vật trong con người Musashi, hắn buông xả lòng mình xin nhà sư cứu mạng. Ngay khi hắn không còn toan tính để sống còn mà chấp nhận sợ những cái đáng sợ, thì nữ bồ tát Quán Thế Âm hóa thân Otsu hiện ra cứu hắn. Và không chỉ có Otsu, ở ngoại ô thành Himeji, lúc đứng trên cầu Hanada để tìm Otsu, hắn không ngờ bị Takuan kéo đi như thể bị thôi miên. Thật vậy, chỉ khi nào con người buông xả, chấp nhận để cho tồn thể của mình trôi theo dòng nghiệp lực, thì khi đó hắn sẽ được cứu thoát. Trái lại, dù có cố gằng vùng vẫy bơi ngược dòng, hắn cũng chẳng thể nào xoay chuyển được dòng nghiệp lực mà từ vô lượng kiếp hắn đã vay trả trả vay. Ân oán phân minh, hận thù minh bạch, hắn buộc phải chấp nhận để rồi từ đó vượt thoát biển tử sinh.

Theo Takuan về lâu đài Ikeda Terumasa, Takezo chấp nhận đổi tên thành Miyamoto Mushasi. Trong đó, Miyamoto là nơi Takezo sinh ra và Mushasi chính là Takezo phiên âm ra tiếng Hán. Chi tiết đổi tên này chỉ được diễn giảng vài dòng, nhưng nó có ý nghĩa vô cùng to lớn của một kiếp người. Đổi tên có nghĩa là tái sinh thành một con người mới và từ đó con người vô minh sẽ bước đi trong chánh đạo. Từ trước đến nay Takezo chỉ biết chém người khác thì việc đổi tên này chính là nhát kiếm đầu tiên mà hắn chém vào mình.

Với người Á Đông, tên họ dù không nói hết tính cách của một người nhưng lại là một trong những yếu tố quan trọng nhất để xác định tính cách của một cá nhân. Kim Định viết : “Người thái cổ coi việc đặt tên là một điều tối quan trọng, đến nỗi tên của một người được coi là quyết định vận mạng của người đó…” (Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, nxb An Tiêm, 1970, tr. 343). Ông giải thích nguyên nhân là vì mãnh lực ma thuật hoặc là vì họ thành tín bắt mỗi tiếng nói, mỗi danh từ phải diễn tả đúng cái bản chất đích thực của nó. Họ còn có cả một phái triết học gọi là Danh gia. Câu chuyện cổ tích Cây thì là cho ta thấy chỉ có Thượng Đế mới có đủ khả năng gọi tên sự vật. Cho nên ai gọi tên cái gì là có thể chinh phục được cái đó. Còn Nguyễn Công Trứ thì nói : “Hễ có thân thì phải có danh, thân đã có ắt danh âu phải có.” Có kẻ còn lưu danh hậu thế bằng cách đốt lâu đài rồi ra giữa chợ mà hô lên : Chính tao đã đốt lâu đài.

Thêm vào đó, trong các tôn giáo, người ta cũng thay đổi danh tính khi có ai đó muốn gia nhập. Với Kitô giáo, người ta đặt tên thánh như Giuse, Maria, Phêrô cho người gia nhập trong nghi thức lãnh bí tích rửa tội. Còn với Phật giáo, tất cả những ai đi tu đều đổi họ mình thành họ Thích, thay tên mình bằng một đặc tính nào đó mà hành giả muốn đạt đến như Chí Thiện, Nhất Hạnh… Như thế, thay tên đổi họ là một bước ngoặc quan trọng trong hành trình trở về Quê hương Cố quận, nơi thiên thu vạn kiếp trong ngần, nơi suối nguồn cơn mưa bát nhã, thấm vào tinh thể xương da, dẫn tàn hương khói lịch hành từ bi.

Trong chuyện Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân đã khéo léo vẽ lên chi tiết Hầu vương tôn Bồ Đề tổ sư làm thầy và được thầy đặt cho một cái tên mới là Tôn Hành Giả và pháp danh là Ngộ Không. Trong đó, Tôn tiếng Hán là 搎 (chiết tự ra là: khuyển 犬, tử 子 và hệ 系)và nếu ta bỏ con thú đi, tức chữ Khuyển, còn lại là Tử và Hệ thì Tử là con trai và Hệ là sợi tơ nhỏ (Theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh). Như thế chữ Tôn nghĩa là thằng nhỏ, Tôn Hành Giả là người lên đường trở thành thằng nhỏ. (Xem thêm Lê Anh Dũng, Giải Mã Truyện Tây Du, nxb Thanh Niên, 2006). Điều này rất phù hợp với đường lối của các tôn giáo như trong Kitô giáo, Đức Giêsu nói : “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Mc 10, 14-15. Bản dịch Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, 1994). Với Lão giáo, Lão Tử nói : “Phục quy ư anh nhi.” (Trở về trẻ thơ), (Lão Tử, Đạo Đức Kinh, dg Thu Giang Nguyễn Duy Cần, tr 148) hay còn gọi là Anh nhi chi tâm, xích tử chi tâm. Còn với Phật giáo thì chính là Khổ ải vô biên, Hồi đầu thị ngạn (quay đầu là bờ). Như thế, tất cả các tôn giáo đều muốn tín đồ luôn quay lại mình, nhớ mình, đừng chạy theo cảnh. Nếu nhớ mình là tỉnh, thì chạy theo cảnh là mê. Con đường về bến giác không có gì khó, mà khó ở chỗ tại chúng ta quên mình. Giờ đây tỉnh lại, biết quay về mình, đó là xoay về bờ giác.

Trong các tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung, chúng ta đều thấy một mô típ chung của sự trở về này. Anh hùng của Kim Dung không phải là kẻ đánh đâu thắng đó, cứ hễ xuất chiêu là máu chảy đầu rơi; mà là kẻ không cha không mẹ, không quê không quán, lại còn bị giang hồ thị phi đẩy vào đường cùng hang sói, khiến cho kẻ anh hùng thất điên bát đảo, chẳng biết đâu thị phi phải trái, đâu là việc nên làm hay không nên làm. Quách Tĩnh trong Anh Hùng Xạ Điêu cũng là kẻ mồ côi cha từ nhỏ, hai mẹ con phải lang thang phiêu bạt ở thảo nguyên của Thành Cát Tư Hãn. Dương Quá thì bị mất cha ngay từ khi còn trong bụng của Mục Niệm Từ và khi chào đời thì người mẹ cũng thành công dân của thế giới bên kia. Đã thế, cha của Dương Quá lại là một kẻ tham phú phụ bần đến nỗi làm những việc trời không dung đất không tha.

Đến Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Cô Gái Đồ Long) thì ta thấy rõ cái đặc tính phản bổn hoàn nguyên, quy căn viết tĩnh, hồi đầu thị ngạn của Kim Dung. Mở đầu là cảnh một Minh Giáo chia năm xẻ bảy, mạnh ai nấy sống mạnh ai nấy làm sau cái chết của Giáo Chủ. Nhưng đến cuối bộ phim, tác giả đã tái tạo xây dựng lại toàn bộ bộ sậu của Minh giáo gồm : Giáo chủ, Quang Minh sứ giả (tả và hữu), Tứ Đại Pháp Vương, Ngũ tảng nhân, Ngũ Hành Kỳ chủ, Giáo chúng.

Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ cũng là kẻ mồ côi được vợ chồng Nhạc Bất Quần đem về nuôi dưỡng.

Rõ ràng nhất trong tất cả tác phẩm của Kim Dung về sự trở về tìm kiếm Quê hương cố quận của mình chính là Thiên Long Bát bộ. Với ba nhân vật chính là Tiêu Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc thì chẳng ai có được một tuổi thơ êm đềm. Bước vào giang hồ gió tanh mưa máu, thị phi lẫn lộn, Tiêu Phong là người thiệt thòi nhất vì mang dòng máu Liêu lại lớn khôn ở Hán mà chính chàng cũng không biết. Còn Hư Trúc lại là kết cả một mối tình thầm kín giữa phương trượng Thiếu Lâm danh trấn giang hồ và Diệp Nhị Nương, một trong Tứ đại ác nhân. Tưởng chỉ có mỗi Đoàn Dự là may phước có cha có mẹ thì đến cuối chuyện, chàng mới biết Đoàn Chính Thuần không phải là cha ruột mà chính Đoàn Diên Khánh, lão đại ma đầu ác nhân mới là cha ruột của chàng.

Trở lại việc đổi tên của Takezo, có lẽ tác giả cũng muốn cho độc giả thấy rằng việc Takezo đổi tên thành Miyamoto Musashi cũng không đi ra ngoài ý tưởng hồi đầu thị ngạn, phản bổn hoàn nguyên, quy căn viết tĩnh, anh nhi chi tâm của đạo học và huyền nghĩa đi tìm nguồn cội của các anh hùng trong truyện Kim Dung. Miyamoto chính là quê hương của hắn, còn Musashi mặc dù không có nghĩa chiết tự như Tôn Hành Giả nhưng nếu cưỡng từ đoạt lý mà đọc theo âm Hán Việt thì sẽ thành ra là Vũ Tàng. ‘Tàng’ ở đây lại có nghĩa là thoái tàng ư mật, trở về cái tâm tĩnh lặng rỗng không của mình. Hơn nữa, hắn còn được đưa vào lâu đài bỏ hoang của dòng họ hắn để tồn tâm dưỡng tánh. Trở về nhà còn hàm nghĩa là trở về cái bổn lai diện mục, cái anh nhi chi tâm của mình để từ đó đủ sức vươn lên khỏi bóng tối vô minh bấy lâu che phủ khắp máu xương da thịt.

Như thế, chỉ một chi tiết nhỏ qua việc đặt tên,Yoshikawa đã nói lên được cả truyền thống đạo học của Đông phương. Cái truyền thống đó đã làm cho nền đạo học của Đông Phương sinh ra những vị thánh tăng siêu thoát chói sáng khắp cả sáu cõi lục địa. Osho cho rằng : Tôn giáo ở Đông phương là một ông già, còn ở Tây phương tôn giáo chỉ là đứa trẻ con. Từ đây, Musashi phải chấp nhận một cuộc tái sinh, lòng mẹ sinh thể xác hắn, thạch thất này sinh ra tâm hồn hắn. Takuan nói với hắn : “Ngươi hãy coi căn thạch thất này như bụng mẹ và hãy chuẩn bị tái sinh. Nếu ngươi coi nó bằng mắt thì đây chỉ là một căn phòng tầm thường, trống rỗng, tối tăm ; nhưng nếu ngươi coi nó bằng trí óc rồi để tâm phán đoán, suy xét thì phòng này chính là con thuyền đại giác đưa ngươi tới ánh chân quang.”

4. Hành trình trở về chính mình

Takezo bắt đầu cuộc hành trình đi tìm cái mình đã biết, tức cái bổn lai diện mục thoái tàng ư mật mà từ vô lượng kiếp trôi lăn trong biển tử sinh, hắn không nhận chân được gốc gác, suối nguồn của nó. Trên con đường này, những kẻ yếu đuối cả về thể xác lẫn tinh thần khó có thể về đến đích và bắt buộc hành giả phải độc hành, không bè không bạn, không thầy không sư, không kinh không sách. Con đường đó là con đường vô lối, vô phương, vô hướng. Cái mà muốn đạt được lại là cái không tên không tuổi, không có số nhà, tên phường, thành phố, quốc gia. Cái ấy nó không ở dưới biển sâu, không ở trên mặt đất và cũng chẳng ở trên trời cao. Nói ở trong lòng mình cũng là cách nói cưỡng bức bạo hành. Bắt cái vô hình phải tượng hình, bắt cái vô thanh phải tượng thanh chỉ khiến cho cái vô hình vô thanh điêu linh hoang phế. Càng lên kế hoạch chi tiết như tấm bản đồ, hành giả càng đi xa cái bất khả tư nghì.

Chính vì thế mà Musashi không chịu đầu quân cho Ikeda Terumasa, nhưng chàng quyết định chọn con đường đao kiếm để về nẻo giác. Con đường này đòi hỏi phải cô đơn cho đến tận cùng, phải tỉnh thức trong từng sát na niệm tưởng, bởi nếu không tỉnh thức, hành giả có thể bỏ mạng và đánh mất cơ may giác ngộ trong kiếp người hiếm hoi này. Cuộc sống của kiếm sĩ là một kiếp sống giang hồ phiêu bạt, ban ngày thì đầu đội trời chân đạp đất, ban đêm thì đất làm chiếu và bầu trời đầy sao làm mùng. Suốt đời suốt kiếp chỉ có cây kiếm làm bạn, đến nỗi ăn cũng kiếm, ngủ cũng kiếm, đái cũng kiếm, ỉa cũng kiếm và chết cũng kiếm.

Thế nhưng, đã trở về rồi sao còn lại phải ra đi? Quay đầu là bờ rồi, bến giác đã nằm gọn trong âm ba tinh thể máu xương phiêu bồng, còn gắng gượng ra đi làm chi răng rứa, rửa tay gác kiếm, xuất thế tiêu diêu, thưởng hoa ngoại cảnh có phải hơn không? Không thể thế được, con đường tâm linh là con đường vô phương vô hướng vô giới hạn, có khi phải trải qua vô lượng kiếp, hành giả mới có thể chứng đắc được cái Bát Nhã, cái Tính Không. Ngay như Đức Phật, vị tôn sư của sáu cõi và của muôn loài, Ngài cũng còn phải trải qua nhiều tìm kiếm mới đạt được chánh đẳng chánh giác, huống hồ phàm nhân chúng ta.

Hơn thế nữa, sự trở về chỉ thực sự là trở về khi trở về cả sự trở về, cho đến khi nào không còn một sát na niệm tưởng của sự trở về thì khi đó sự trở về mới mở phơi chân lý. Chính vì vậy, Musashi phải tiếp tục ra đi, ra đi cho đến khi nào ra đi luôn cả sự ra đi, thì lúc ấy sự ra đi chính là sự trở về và sự trở về hóa thân thành sự ra đi. Nhà thiền nói : trước khi học thiền thì thấy sông là sông, núi là núi ; đến khi mới học thiền thì thấy sông không còn là sông, núi không còn là núi ; và khi giác ngộ thì sông lại chỉ là sông và núi lại chỉ là núi. Đó cũng chính là cái bình thường tâm Nam Tuyền Phổ Nguyện đáp lại câu hỏi của Triệu Châu : Thế nào là đạo (như hà thị đạo). Nói cho cùng, trở về và ra đi cũng chỉ là lông rùa sừng thỏ, là mộng huyễn bào ảnh, là mây trắng lang thang, là chuồn chuồn gãy cánh, là trùng sinh nhập diệu, là hoàng hôn bên nớ và là triêu dương bên ni. Ấy chính là sự ra đi vào hố thẳm, sự ra đi bất khả tư nghì, ra đi sự ra đi trong cả sự ra đi…

Kẻ lữ thứ từ đây đã chọn cho mình con đường Kiếm đạo để ra đi vượt qua chiếc cầu sinh tử. Chiếc cầu ấy chỉ được làm bằng một sợi tóc bắc ngang qua không biết cơ man nào là núi cao, biển rộng, sông sâu, vực thẳm, sa mạc, cô đơn, lạnh lẽo thấm vào tận cùng máu huyết luân lưu dịch chuyển bất tận. Muốn đi trên chiếc cầu đó, hành giả còn mỗi cách nhảy bằng một chân, biểu tượng của Bất Nhị, tựa như chiếc hài độc nhất của tổ Bồ Đề Đạt Ma hành trình về phía Hy Mã Lạp Sơn sau khi được chôn cất ở Trung Hoa. Như thế, chỉ cần một sát na vọng động, cành hư vô sẽ mọc đầy trái đắng, kẻ đăng trình hóa mộ địa điêu linh, ảo tưởng mình nhập lưu dòng Bất Nhị, bão vô minh phỉ nhổ vào máu xương, in hằn vào thăm thẳm vực linh hồn, nọc độc của những con rắn lục là tâm ý thức nhị nguyên sẽ tiêm chích vào tinh thể làm chai lỳ, bạc nhược, ung thối tinh thần tinh tấn giải thoát của hành giả. Và từ khô cằn sỏi đá, Chân Như không còn biết nương theo khe nứt mà nở giữa dòng đời đầy phiền não một Đóa Vô Ưu.

Chính vì thế mà Takuan đã cảnh báo trước lúc hai người chia tay : “Miyamoto Musashi ! Đường con đi không phải là không có trở ngại. Phải cẩn thận mới được!” Tuy nhiên, Musashi đã tự nhủ lòng mình : “Ta sẽ tuân theo kỷ luật, coi thanh kiếm này như chính hồn ta, tu tỉnh thành người khôn ngoan và lương thiện. Takuan theo thiền đạo, còn ta theo kiếm đạo, chưa chắc ai đã hơn ai. Ta còn trẻ, đâu đã lấy gì làm trễ !”

Trong khuôn khổ bài này, người viết chỉ đề cập đến hai vực thẳm mà Musashi phải vượt qua. Cái thứ nhất là Đàn bà, sự trói buộc hay giải thoát và cái thứ hai là Kiếm thiền nhất như.

4.1. Đàn bà, hệ lụy hay giải thoát.

Sau ba năm sống cách biệt với cõi trần, Musashi cảm thấy rất ngỡ ngàng trước cuộc sống thăng trầm biến dịch. Đang còn phân vân chưa biết phải làm gì trước trên con đường đao kiếm giang hồ thì Otsu hiện ra lộng lẫy như một vị bồ tát. Nàng đã nói là chờ đợi chàng ở cây cầu Hanada này cho đến hết kiếp mới thôi và nàng đã giữ lời. Suốt ba năm qua, nàng đã tìm công việc ở gần đây để ngày nào cũng ngóng đợi chàng. Giờ gặp mặt nàng mừng xiết bao. Nhưng niềm vui hội chưa trọn thì Musashi đã từ chối không cho nàng cúc cung phụng sự chàng. Điều ấy khiến Otsu tan nát con tim. Có lẽ đây là một trong những chướng ngại khó khăn nhất trên con đường giải thoát. Hơn nữa, Otsu lại là một đóa hoa tài sắc vẹn toàn, công dung ngôn hạnh, cõi lòng từ bi hỉ xả của nàng có thể dung nhiếp khắp cả càn khôn đại địa. Sở hữu được nàng là ước mơ của không biết bao nhiêu đàn ông trên thế gian này. Thế mà Musashi vẫn một mực từ chối không cho nàng theo chỉ vì lý do gian lao khổ cực dày đây mai đó trên con đường của chàng.

Lý giải cho quyết định này không phải là việc dễ dàng gì khi mà Freud đã cho rằng con người đều bị chi phối bởi dục tính. Nhưng tựu chung, chúng ta cũng có thể hiểu được rằng khi một ai đó đam mê bất tận vào một mục đích nào đó, tự nhiên nhu cầu giới tính của họ không còn cần tới. Hay nói cách khác là năng lượng tiêu hao cho nhu cầu tính dục giờ được hoán chuyển vào mục đích nghệ thuật hay tâm linh. Truyền thuyết Ấn Độ kể lại rằng có một nhà huyền môn đã lấy vợ, nhưng suốt 20 năm trời, ông ta hoàn toàn không ý thức được sự hiện diện của vợ mình. Nhưng trong suốt thời gian đó, người vợ vẫn cúc cung tận tụy, sớm tối hầu hạ cho chồng từng miếng ăn từng giấc ngủ. Đến khi ông ta viết xong quyển sách mà bao nhiêu năm ông thai nghén, ông mới nhận ra có người trong nhà mình. Ông ta nói : “Cô là ai?” Bà trả lời : “Em là vợ anh mà bấy lâu nay anh không biết sao?” “Ồ! thật thế sao! Bao nhiêu năm qua sao em không nói?”

Về số phận của phụ nữ, có thể nói rằng từ khi loài người có tôn giáo tổ chức, số phận của họ trở nên mong manh như sợi tóc. Osho nói : “Tất cả mọi thứ tôn giáo đều e sợ đàn bà vì tất cả tôn giáo đều sợ tình dục.” (Osho, Đàn Bà Tình Yêu Và Tự Do, tr 81). Một tôn giáo tôn thờ Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân loại như Kitô giáo thì lại cho đàn bà là kẻ không có linh hồn chỉ vì đàn bà đã nghe lời xúi dục của Satan trong vườn Địa đàng. Xa hơn nữa, Thiên Chúa của Kitô giáo là giống đực, nên Ngài cũng có đủ đầy thành kiến của một người đàn ông. Có lẽ vì thế mà Ngài đã tạo dựng người đàn ông trước rồi mới lấy cái xương sườn của hắn mà tạo ra đàn bà. Óc kỳ thị phụ nữ đó ám ảnh nhiều đến nỗi ngay trong quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi (Trinité), không có ngôi nào là giống cái, tất cả ba ngôi đều là đàn ông, ăn nằm với nhau rồi sinh ra nhau. Chúa Cha yêu Chúa con đến nỗi nhiệm xuất ra Chúa Thánh Thần. Nên Chúa Thánh Thần là biểu tượng của tình yêu. Đó là cách diễn tả về Ba Ngôi của Kitô giáo. Osho nói : Việc đó giống y hệt như một câu lạc bộ đồng tính.

Trở về trời đông, phụ nữ ở Trung Hoa cũng không thoát khỏi số phận. Ảnh hưởng của Hán Nho đã khiến phụ nữ trở thành một trong những món hàng có thể mang đấu giá để gả bán. Chế độ đa thê đã biến phụ nữ thành một cái máy đẻ, một món đồ thoả mãn dục tính cho đàn ông. Vì thế mà ngày xưa, không có luật nào cấm người chồng giết vợ. Tục cưới vợ cho Hà Bá để ngài khỏi dâng nước sông Chương Hà lên gây lụt lội cho thấy phụ nữ chỉ là một con thú vật cho bọn đàn ông lợi dụng từ bao đời bao kiếp. Ôi khốn thay cho thân phận nhi nữ thường tình, đầu thai lỡ kiếp tóc dài đa đoan.

Tín đồ đạo Jain thì tin rằng không có người nào được giải thoát lại mang thân xác đàn bà, chỉ có đàn ông mới được vào cảnh giới tối cao (moksha). Phụ nữ nào muốn tu tập giải thoát, thì buộc phải tái sinh thành đàn ông. Còn Kinh Côran thì cho phép nam tín đồ của mình lấy 4 vợ, nhưng ngược lại đàn bà thì không được làm thế. Họ không được vào đền thờ Hồi giáo mà phải cầu kinh ở bên ngoài. Ngay như Đức Phật, lúc đầu Ngài không nhận nữ giới vào tăng đoàn. Nhưng vì tôn giả Anan cầu khẩn mãi, Đức Phật mới cho họ thành lập ni chúng.

Trở lại chi tiết Mushashi từ chối lời van xin của Otsu, chúng ta thử xem Mushashi có phải là người ‘lệnh ông át cồng bà’, là kẻ trọng nam khinh nữ theo chủ nghĩa bái vật Hà vu hay các tôn giáo kể trên không?

Trước hết, ta thấy chiến tích suốt thời thơ ấu Mushashi là quậy phá, lì lợm, đánh nhau, đấu kiếm và đã đôi ba lần thượng đài hạ gục đấu sĩ Samurai. Mãi đến khi thất trận và lẩn trốn quan binh truy lùng, Mushashi mới được tiếp xúc với đàn bà. Lần đó góa phụ Oko lả lơi ham muốn tư tình với chàng, nhưng bị chàng cự tuyệt dữ dội. Chàng sợ hãi đến nỗi tim đập loạn xạ. Yoshikawa đã mô tả như sau : “Hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, chân mềm như bún, Takezo kinh sợ quá chừng ! Chưa bao giờ hắn gặp một địch thủ ghê gớm đến thế ! Cả lúc nhìn đoàn người ngựa chạy rầm rầm trên bãi hoang còn tanh mùi máu ở Sekigahara, tim hắn cũng không đập loạn đến thế !”

Lần thứ hai, Mushashi phải đối diện với nữ bồ tát Otsu, lần này không phải là mùi hương nồng ấm tỏa ra từ mái tóc hay bàn tay vuốt ve âu yếm, nhưng lại là lời cầu xin chân tình tha thiết của một thiếu nữ vừa là một trang tuyệt sắc mang một tâm hồn trinh khiết nguyên sơ, vừa là đại ân nhân cứu mạng mình khỏi sự trừng phạt của dân làng. Lời cầu xin đó oái ăm thay không phải là lời xin đặc ân cho riêng nàng, mà lại là lời nguyện cầu được mang đặc ân đến hầu hạ chàng dù phải trải qua trăm ngàn đắng cay gian khổ. Người xưa đã từng nói : Anh hùng mấy ai qua được ải mỹ nhân. Ấy là chưa kể mỹ nhân ấy đã tự nguyện hiến dâng trọn vẹn tinh thể máu xương cho mình. Đúng là phúc bất trùng lai họa vô đơn chí. Gặp cảnh này, dù đã tu luyện ba năm trời, nhưng chàng không biết xử trí ra sao.

Thật vậy, nếu bỏ đi thì quả thật chàng là một kẻ nhẫn tâm, bởi Otsu khi nhỏ đã chịu cảnh côi cút, không cha không mẹ, lớn lên, vị hôn phu bỏ đi, bây giờ lại gặp cảnh này, nàng uất hận nấc lên tức tưởi; nhưng nếu mang theo Otsu thì chẳng khác gì thằng bé bám váy mẹ. Mushashi chân thành thổ lộ : “Ta vừa trở nên một người khác. Đã ba năm nay bị giam trong thạch thất tối tăm, chỉ đọc sách, ta đã khóc cho thân thế, đã hối hận biết bao nhiêu nhưng cũng đã tìm thấy ánh sáng. Ta mang họ mới: Miyamoto, tên là Musashi mà chưa đạt nên phải cố. Ta muốn dành tất cả thì giờ trong đời để tập nên người toàn thiện, không màng lạc thú gì khác. Nếu nàng theo ta, nàng sẽ không bao giờ có hạnh phúc, chỉ có thử thách và khổ đau. Rồi cùng với thời gian, tuổi tác, khổ đau càng thêm chồng chất …”

Thế nhưng Otsu vẫn một mực xin theo. Tấm lòng của nương tử Otsu đằm thắm, dịu dàng và chung thủy hết mực giữa vòng ma nghiệt quỷ khốc thần sầu của tồn hoạt bể dâu khiến cho chàng chỉ còn biết câm lặng tan chảy con tim dũng mãnh theo dòng nước lơ thơ dưới chân cầu Hanada. Yoshikawa đã mô tả tâm trạng của Mushashi lúc đó như sau : “Bây giờ là lúc hắn có thể bỏ đi dễ dàng, nhưng sao chân hắn vẫn dính chặt xuống đất, lưu luyến như bị đôi má lúm đồng tiền và giọng nói van lơn giữ lại. Con người mới duyên dáng và dễ mến làm sao !” Chẳng còn cách nào khác, chàng phải lưu lại tuyệt bút trên thành cầu và câm lặng ra đi : “Tha lỗi cho ta, tha lỗi cho ta !”

Sau lần chia tay đó, Otsu vẫn một buồng riêng riêng những sụt sùi, hoa đời có nát có vùi bể dâu, má hồng hoang lạnh đêm thâu, nguyện mong trọn kiếp bạc đầu thủy chung. Chẳng hiểu Yoshikawa khéo bày hay Con Tạo trớ trêu, định mệnh ngang trái bày đặt mắc giăng, khiến cho nương tử má hồng, nghìn dặm quan san mỏi ngóng trông, tương phùng hội ngộ trong hư huyễn, hoang vu thị hiện khắp càn khôn. Cứ mỗi lần tưởng gặp được chàng, là mỗi lần ngàn trùng cách xa, để rồi mãi đến 10 năm sau, trước trận đấu sinh tử sống còn với Kojiro, nàng mới được hạnh ngộ với chàng. Phút hạnh ngộ triền miên bất tuyệt, cọ mài bên bờ mép tinh anh, buổi sơ nguyên quy hồi tuyết nguyệt, là biền biệt mai này xa xăm.

Lần thứ ba, Mushashi phải đối diện với một nghịch cảnh mà người đương thời, kể cả quan quyền lẫn thứ dân, đều mơ được một lần, lần khân bên nương tử, sắc tài ngút ngàn thu. Đó chính là cuộc hội ngộ tại tư dinh của danh kỹ đất thần kinh Yoshino. Việc được nàng mời riêng về tư thất là một việc xưa nay chưa từng có cho dù đó là công hầu khanh tướng, võng lọng cao sang. Và việc ngỡ ngàng hơn nữa khi chính nàng nằng nặc đòi giữ một mình Mushashi ở lại. Ngay cả hai người danh gia vọng tộc là Haiya Shoyu và Mitsuhiro cũng cười ghen tị với chàng : “Musashi ! Ngươi là người có diễm phúc nhất Kyoto này đấy !”

Cái đêm chỉ có hai người đó, ngoài trời tuyết lạnh đông cứng, vạn vật rét cóng tê chân, thì trong nhà, mặc dầu ngọn lửa cất cao, chàng vẫn ngồi yên như khúc gỗ, bất kể những lời mời mọc lại gần lò sưởi ấm của nàng Yoshino. Cái đêm đó cũng là đêm chàng vừa mới hạ Denshichiro, một đại cao thủ của phái Yoshioka và tạo nên một mối thù sinh tử truyền kiếp với toàn bộ đồ chúng của môn phái Yoshioka. Vì thế, Mushashi căng thẳng tột cùng, đến nỗi từng mảng tuyết trên mái nhà rơi xuống làm chàng cứ ngỡ là bước chân của kẻ định đang tập kích tấn công mình. “Mỗi lần có tiếng động như thế, thần kinh hắn lại căng thẳng, các chân tóc dựng đứng.”

Thấy thái độ căng thẳng quá mức của chàng, Yoshino mượn cái tâm cây đàn là miếng gỗ cong và hai đầu để lơi cho rung động tự do để giúp chàng ý thức được thực tế mà chàng đang phải đối diện. Trong những lúc nguy hiểm luôn rình rập quanh mình, không phải lúc nào cũng chăm chú căng thẳng vào đối phương mới có thể thoát chết. Nhưng cái tâm nên được thư giãn sau mỗi lần tập trung quá độ. Nàng nói : “Tâm trí con người cũng thế, phải mềm dẻo thích nghi. Sau mỗi khi căng thẳng, hãy để cho lòng thoải mái. Cứng quá thì gãy.” Lời nói của Yoshino tựa như câu nói của Hoài Nhượng khai ngộ cho Mã Tổ. Câu nói ấy chính là : “Ngồi thiền làm sao thành phật được?” Cũng thế, để giết được địch thủ, căng thẳng quá mức không phải là tuyệt chiêu, thậm chí nó còn phản tác dụng. Cương không thể thiếu nhu, nhu rất cần đến cương, đó là nguyên lý tối hậu, nhưng nếu không biết khôn ngoan áp dụng, ta sẽ chẳng bao giờ đạt được cực ý của cuộc đời.

Tóm lại, con đường kiếm đạo còn dài, chàng tự nhủ phải khổ hạnh, phải dẹp bỏ mọi thứ, nhất là phụ nữ hóa thân thành Otsu thì trong giờ khắc sinh tử này, nhờ một người phụ nữ mà chàng đã học tập và áp dụng được nguyên lý Âm Dương. Cái nguyên lý đó bàng bạc khắp cả vũ trụ càn khôn, nhưng không phải ai cũng có đủ sáng suốt để thực hành. Giây đàn căng quá sẽ đứt, tinh thần căng quá sẽ khủng hoảng, bất cứ cái gì cũng phải có hai nhịp đi về, đầu cuối, sáng tối, trời đất… Nếu không biết kết hợp nhuần nhuyễn, con người sẽ suốt đời ngụp lặn trong bóng tối vô minh. Nhờ bài học này mà tấm lòng Musashi không còn khô khan lạnh lẽo vị kỷ như hồi còn ở cầu Hanada nữa, tâm chàng giờ đây mẫn cảm hơn, nhiệt tình hơn và ham muốn hơn, và trong nhiều đêm dài trằn trọc, cô đơn ở thạch thất cũng như ở những ven đồi hoang vắng, Miyamoto Musashi đã phải nén lòng mình, chôn vùi mối tình nồng nhiệt sau bộ mặt lạnh lùng khô khan.

Khi gặp được nàng, chứng kiến tấm lòng chung thủy của nàng, sẵn sàng chết nếu chàng có mệnh hệ gì làm cho chàng hổ thẹn với lòng. Lòng tự tin và quyết tâm ấy khiến Miyamoto Musashi ngạc nhiên và thẹn với mình, vì đã lâu nay, sống chết làm hắn phân vân và hoang mang lắm. Bao nhiêu suy tư vẫn chưa mang lại cho hắn một quyết định dứt khoát nào cả. Trên đường hành đạo, trong nhiều trường hợp, hắn không phân định được lúc nào phải chết và lúc nào đáng chết. Trong khi ấy, một thiếu nữ yếu đuối như Otsu, không được huấn luyện và không có công phu hàm dưỡng gì đặc biệt, lại có thể sẵn sàng chấp nhận cái chết để được toại ý, bình thản và không do dự. Musashi không ngờ người thiếu nữ yếu đuối kia có sức mạnh tinh thần đáng sợ đến thế ! Một bài học nữa khiến chàng chỉ còn biết cúi đầu hổ thẹn với lương tâm. Người mà chàng cho rằng đi theo chàng chỉ làm rộn chàng thì lại là người dạy cho chàng biết lúc nào đáng chết và lúc nào cần sống.

Từ sự chống đối, sợ hãi, ghê tởm, trốn tránh phụ nữ, Mushashi dần chuyển sang tình cảm chấp nhận, yêu thương, nhớ nhung, tôn trọng và cuối cùng hôn phối với Otsu biểu tượng của lòng từ bi hỷ xả sẵn sàng chung thủy hy sinh cả mạng sống mình cho người mình yêu. Chấp nhận hôn phối với một người nữ là chấp nhận trở thành đứa trẻ bú mớm trong vòng tay mẹ. Chấp nhận hôn phối với người nữ còn có nghĩa là chấp nhận từ bỏ cái bản ngã của mình biến thành đứa con ngủ yên trong vòng tay âu yếm của mẫu thân mình. Bởi xét cho cùng, đàn bà là âm so với đàn ông là dương; đất là âm so với trời là dương. Nên đất là biểu tượng của người đàn bà, và chính vì thế mà người đông phương gọi đất là Mẹ Đất, hay muốn diễn tả cái chết thì họ nói ‘trở về lòng đất mẹ.’ Cho nên, trở về lòng mẹ hay trở thành trẻ thơ, thành cái anh nhi chi tâm chính là yêu sách tuyệt đối của mỗi con người.

Như thế, Mushashi không xem thường, cũng không quá xem trọng phụ nữ. Trong suốt cuộc lữ miên trường, Mushashi cũng đã có lần ngửi thấy mùi hương từ mái tóc của người thiếu nữ phảng phất lẫn với mùi da thịt nồng ấm khi hai người nằm cách nhau tấm vách mỏng. Và nhất là lần ở dưới chân ngọn thác Phu Phụ hùng vĩ trên đường đi Edo, lúc đó chỉ có hai người, chàng cảm thấy nhộn nhạo khác thường, đến khi Otsu ôm lấy cổ, chàng không còn tự chủ trước mùi hương nồng nàn của thiếu nữ và đã đè Otsu xuống cỏ. Nhưng Otsu chống cự vì không muốn Musashi bị ràng buộc vào những việc khác ngoài con đường kiếm đạo. Đây chính là tâm trạng của chàng : “Miyamoto Musashi phục xuống cỏ. Hắn tự nhủ chưa làm điều gì xâm phạm nhưng sao lương tâm hắn vẫn không an ổn. Mùi đất ẩm xông lên, Miyamoto Musashi dần dần lấy lại được bình tĩnh. Khi đứng dậy, mắt hắn không còn ngọn lửa đam mê nữa mà nguội lạnh như tiền. Dường như hắn vừa nghe tiếng gọi, tiếng gọi của sông rộng núi cao, của lý tưởng hắn đã nguyện phục vụ.”

Trước kẻ thù vô hình chính là dục vọng của mình, lưỡi gươm của chàng trở nên bất lực. Nó không hình không tướng, không thân không thể, làm sao mà mổ ruột moi gan nó được. Ngọn lửa dục vọng ấy chính là nội lực giúp chàng thi triển những tuyệt chiêu của bí kiếm, nhưng nếu không được chế ngự và điều phục đúng cách, nó sẽ biến thành sự hung bạo, cuồng dâm, hiếu sát của loài thú. Cho nên Lão Tử mới nói : “Thánh nhân thì biến tinh thành khí, còn tiểu nhân thì biến khí thành tinh.” Theo phương pháp đó mà Đạo Cao Đài mới có pháp môn tu mật là Tinh – Khí – Thần, tức là biến tinh thành khí và biến khí thành thần. Trong tác phẩm Minh triết trong đời sống, Darshani Deane nói : “Sức mạnh của tình dục chứa đựng một mãnh lực huyền bí mà rất ít người biết đến. Khi sức mạnh của nó không phát lộ ra ngoài thì nó biến đổi thành tinh chất Ojas, một yếu tố cần thiết để đạt đến tâm thức đại đồng. Chính Ojas sinh ra khí lực, sức mạnh và sự hấp dẫn, không những để đạt đến các trạng thái cao thượng của con người mà còn để thành công trong mọi lãnh vực, đặc biệt nhất là lãnh vực sáng tạo.” (Darshani Deane, Minh Triết Trong Đời Sống, dg Nguyên Phong, NXB Văn Nghệ, 1992, tr 94).

4.2. Kiếm thiền nhất như

Để vượt qua, trút bỏ được những nhu cầu vật chất, tiền bạc, danh vọng, vợ đẹp con ngoan, nếp nhà đầm ấm… Mushashi cũng phải chiến đấu hết mình. Con đường nếu chỉ dừng lại ở đây, hành giả sẽ trở thành là gỗ đá vô tri. Đoạn cuối, đỉnh dốc cheo leo của con đường cuối cùng này chính là giai đoạn khó khăn nhất, khốc liệt nhất của mỗi hành giả. Đó chính là làm sao để cho Kiếm đạo với Thiền đạo trở nên một tổng thể hòa quyện vào tất cả máu xương tinh thể, làn da thớ thịt, rồi từ đó phun trào ra tất cả càn khôn đại địa làm chấn động hư không tựa nhưng con sư tử ngàn năm cất tiếng hống một lần. Làm sao để sử kiếm như cầm đôi đũa gắp thức ăn chính cùng đích của mọi kẻ học kiếm đạo. Ta thử xem, Mushashi hành động như thế nào để đạt được cùng đích đó.

Sau ba năm ẩn cư trong lâu đài đọc sách thánh hiền, cộng thêm một năm luyện kiếm giữa núi rừng hoang vu, Mushashi bắt đầu lên đường hành hiệp giang hồ. Nếu muốn là một Samurai thực thụ thì hắn buộc phải lang thang trên bước đường giang hồ rèn luyện kiếm thuật và tinh thần bất thối chuyển trước sự sống còn của kiếp người. Đó là một quy luật bất thành văn. Chàng lang thang khắp nơi khắp chốn từ thành thị đến nông thôn, từ rừng sâu nước độc núi non hiểm trở đến đô thành lộng lẫy xa hoa. Tự ép mình gian khổ truân chuyên, bắt nhục thân đương đầu nguy hiểm, cho máu nóng chảy tràn tứ đại, lấy da xương cọ mài kiếm báu, mắt trừng quang chói lóa trời đêm. Ngày chàng đi, đi không có chủ định, chân đưa đến đâu thì ý hiện đến đấy. Đêm chàng ngủ bờ ngủ bụi, may mắn thì ngủ nhờ trước một cổng chùa nào đó hay đặt mình trong một căn miếu hoang. Không may thì lấy đất làm chiếu, lấy bầu trời trăng sao làm màn, lúc nào cũng ôm chặt thanh kiếm bên mình như tân lang ôm tân nương đêm động phòng hoa chúc. Và để trau dồi võ nghệ, chàng cũng như bao kẻ giang hồ khác, một khi đã nghe tin ở đâu có kiếm khách tuyệt luân là tìm đến tỉ thí. Đây chính là nhân dạng của chàng : “Trông dáng điệu và y phục, đúng là loại kiếm sĩ lang bạt không nơi nương tựa, thấy nhan nhản ở khắp thôn quê cũng như thành thị thời ấy. Miyamoto Musashi trông còn có vẻ tệ hơn: hình như hắn không lưu tâm gì đến chuyện phục sức bề ngoài, chỉ chú ý vào việc luyện võ. Mắt hắn sắc như dao, dáng đi ngang tàng, nên tuy quần áo rách rưới, tên gia nhân cũng giật mình lui bước.”

Một trong những võ đường nổi tiếng thời đó là phái Yoshioka, nơi mà chàng thăm viếng đầu tiên để thử xem trình độ võ học của mình như thế nào. Vì tự học kiếm trong nhiều năm, không môn phái, không sư thầy, nhất là suốt một năm ẩn cư trong rừng để luyện kiếm với cây cỏ thú rừng, nên chàng quyết tâm thử xem, những chiêu kiếm do mình sáng tạo, nó uy lực đến cỡ nào. Không ngờ, chàng hạ được cả một đám lâu la nhất tề xông vào để hạ gục chàng. Tác giả đã tả quang cảnh đó như sau : “Mọi người sửng sốt, hét lên phẫn nộ, cùng rút kiếm ra khỏi vỏ. Tình hình không còn là một cuộc so tài thử sức nữa mà là một cuộc nhất tề xông tới lấy số đông áp đảo giết cho được Musashi. Nhưng hắn như con cọp dữ, đâu có để cho dễ bắt. Hắn chém đông, gạt tây, đâm, phát; kiếm quang loang loáng dưới ánh chiều xuyên qua cửa sổ. Musashi hét lên những tiếng ghê rợn, mỗi nhát kiếm lia tới đâu là có người ngã tới đó, không chết thì cũng thương tích trầm trọng.”

Trong giới kiếm sĩ, danh dự bao giờ cũng quý hơn sinh mạng. Sự kiện chỉ có một tay kiếm vô danh đến khuấy động cả môn phái Yoshioka danh trấn giang hồ là một điều vô cùng sỉ nhục và không thể chấp nhận được. Cả phái họp lại tìm đủ mọi cách giết cho bằng được Musashi, nhưng chàng đã chạy thoát khỏi những mưu mẹo toan tính đê tiện hèn hạ của bọn tiểu nhân chỉ biết sống tầm gửi, chuyên núp bóng danh hiệu người khác mà tác oai tác quái lên mặt dạy đời thiên hạ.

Sau khi thoát khỏi sự hèn mạt của phái Yoshioka, chàng tiếp tục đến thăm các phái ở Kyoto, nhưng chỗ nào chàng cũng toàn thắng. Nhìn lại những chiến tích ban đầu đó, kẻ thường nhân dễ sinh lòng kiêu mạn coi thường kẻ khác. Thậm chí còn an phận thủ thường, vẽ rắn thêm chân để tô điểm cho hào quang của mình thêm rạng rỡ. Trái lại, Musashi lại tự vấn lương tâm không biết sở học của mình là cao hay kiếm phái của họ thấp kém. Và đã có lúc, chàng cũng cảm thấy hãnh diện với những chiến công của mình. Nhưng ngay lập tức, chàng nghĩ đến câu nói : “Không gì giết chết tài năng nhanh chóng bằng lòng kiêu ngạo !” Nếu quả thật kiếm pháp của họ chỉ hữu danh vô thực thì dù có thắng họ, kiếm pháp của chàng cũng chẳng có gì là cao siêu. Cần phải gặp những tay cao thủ thực thụ so tài, ta mới biết thế nào là sức mạnh của ta. Chẳng thứ gì có thể thử được vàng ròng ngoại trừ ngọn lửa hừng hực bốc cao. Nghĩ thế, chàng lâm râm khấn vái thần linh hộ phù trợ giúp cho chàng đủ nghị lực bước đi trên cuộc lữ miên trường về với Chân Như.

Ý thức được sở học của mình, Musashi tiếp tục bước đường giang hồ mưa nắng thất thường, đường dài vô định, sinh mệnh lênh đênh. Chàng tiếp tục đến đền Hozoin để học hỏi về món tuyệt kỹ trường thương và những thế mâu, bổng đã từng làm chấn động giang hồ không ai địch nổi. Dịp này, Musashi trực kiến được một sức mạnh vô hình toát ra từ tia mắt của một lão già râu tóc bạc phơ đang ngồi cào cỏ khiến hắn giật mình nhảy tránh sang bên. Tia mắt bất ngờ có uy lực dũng mãnh tựa tiếng sấm chẻ ngang bầu trời trong đêm giông bão tối đen. Chàng cảm thấy ngột ngạt khó thở, toàn thân nóng ran như vừa thoát khỏi một ngọn lửa táp tới hay như vừa tránh kịp một thế kiếm giết người phạt ngang hạ chỉ. Theo phản xạ tự nhiên, chàng đặt tay vào đốc kiếm, nhưng nhìn quanh thì chẳng có ai ngoại trừ lão già vẫn đang cào cỏ hiền khô. Chàng chẳng hiểu tại sao lại có sự việc như thế…

Vào đền Hozoin, chàng thủ thắng Agon một cách dễ dàng. Khi quay ra, Lão tăng ngoài vườn theo tới bắt chuyện với Mushashi. Sau vài lời xã giao, chàng được Lão tăng Ozoin giải thích sự kiện tia mắt chấn động của lão như sau: “Trái lại, khi thí chủ cách bần tăng chừng một trượng, chính bần tăng cảm thấy không khí ngột ngạt, sát khí bừng bừng phát ra từ ánh mắt cũng như dáng đi của thí chủ nên bần tăng đề phòng. Một nông dân chất phác nào đó đi qua chắc chỉ nhìn bần tăng như một kẻ làm vườn vô hại, nhưng thí chủ lại khác. Tham vọng cùng với nội lực hết sức sung mãn của thí chủ không kềm chế tuôn ào ào như thác lũ, gặp bần tăng bị dội lại nên thí chủ tưởng bần tăng sắp động thủ ...”

Nghe xong, chàng vô cùng kinh ngạc về sự hiểu biết của Ozoin và được biết thêm vị thủ tọa đền Hozoin, Inshun, mới là đại cao thủ. Chàng ngỏ ý muốn lưu lại vài ngày để xin thỉnh giáo với Inshun, nhưng lão tăng nói rằng đó là việc không cần thiết. Còn nếu thỉnh giáo thì hãy nhìn vào mắt lão tăng. Khi lão tăng phóng mục quang thì toàn thân Mushashi rúng động, ánh bích quang tỏa ra một ma lực kỳ lạ thu hút hết ý chí của làm chàng tê dại, không khác gì một con thỏ nằm chơ vơ trước miệng con cọp sắp nuốt mình. Đến khi rời khỏi chùa, Mushashi mới công nhận, mình chỉ thắng cái chiêu thức bên ngoài; còn cái cực ý bên trong, chàng hoàn toàn thất bại. Bất chợt chàng than thở : “Ngoài khung trời này còn có những khung trời khác, cái ta hiểu thật là nông cạn. Ta đã thắng bên ngoài, nhưng bên trong, phần tâm ý …”

Về phương diện nội lực, Kim Dung cũng là một trong những tác giả đặt nội lực nên hàng thượng thừa. Với Kim Dung, chiêu thức dù có tinh vi xảo diệu biến hóa khôn lường đến đâu đi nữa mà không có nội lực thì sớm muộn gì cũng nhận phần thua. Còn không có nội lực mà luyện những chiêu thức phức tạp thì rất dễ tẩu hỏa nhập ma. Trái lại, dù chiêu thức đơn giản, quê kệch mà nội lực sung mãn thì ta có thể nắm chắc phần thắng. Trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Trương Tam Phong lúc còn nhỏ đã chứng kiến sư phụ mình là Giác Viễn tỉ thí một ván cờ với Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo. Gọi là Tam Thánh vì Hà Túc Đạo tinh thông cả ba môn cầm, kỳ và kiếm. Hà Túc Đạo muốn chứng tỏ công phu của mình bèn nhặt một viên đá vạch 38 đường ngang dọc tạo nên bàn cờ. Giác Viễn muốn giữ thể diện cho Thiếu Lâm nên dùng nội lực của Cửu Dương Chân Kinh dồn xuống sợi dây xích dưới chân để xóa đi những nét vạch của Hà Túc Đạo. Thấy vậy, Hà Túc Đạo rút kiếm tấn công. Nhưng nhờ nội công thâm hậu nên Giác Viễn đã tránh né được những đường kiếm tuyệt luân của Hà Túc Đạo trong đường tơ kẽ tóc, nhưng sức lực có hạn, Giác Viễn dần dần yếu thế. Thấy sư phụ lâm nguy, Trương Tam Phong, lúc bấy giờ còn là Trương Quân Bảo, đứng gần đó phóng ra một chưởng cấp kỳ để cứu thoát sư phụ, chưởng đó làm Côn Luân Tam Thánh bật ngửa người ra, và khi đứng lên hắn nhằm Quân Bảo mà đánh tiếp 10 chưởng liên hoàn nữa, nhưng chỉ bằng mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm, Quân Bảo đã thủ thắng được một Hà Túc Đạo mà đời xưng tụng là kiếm khách.

Như vậy, nội lực là cái gì đó ở bên trong, cái nhân tố quyết định thành bại, được mất, có không trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Cái nội lực đó bình thường thì tán loạn, không tập trung và thường gây ra những tác hại tiêu cực khiến cho chính chủ thể không hiểu tại sao mình lại hành động xuẩn ngốc đến thế. Nhưng nếu nội lực phong phú mà được chế ngự, điều khiển và tập trung chúng vào một điểm nhất định, tựa như chiếc kính lúp thu ánh sáng mặt trời và sau đó vận chuyển nó để khai mở huyệt đạo qua những kinh mạch thì hành giả sẽ thực hiện được rất nhiều khả năng phi thường. Theo Đông y và Khí công thì kinh mạch là những con đường vận hành và luân chuyển khí trong cơ thể. Còn huyệt là những kênh đặc biệt trên cơ thể mà tại đó có thể hấp thụ hay khai phóng chân khí và nhờ thế người ta chữa được rất nhiều bệnh… Có lẽ Musashi một phần vì không có sư phụ, nên chàng không đủ khách quan để lượng giá những chiêu thức và nội lực của mình, nhưng thất bại trước lão tăng khiến cho Musashi càng nghi ngờ về con đường kiếm đạo của mình. Vả lại, chàng cũng đoán ra được rằng mình chưa kiềm chế được nội lực của mình, bởi ‘cường bất khiển tất nhược.’ nhưng làm sao để kiềm chế thì lại là một vấn đề hóc búa. Suy tư sách vở kinh viện nhiều khi cũng chẳng tới đâu, nên chàng quyết định tiếp tục lao vào những cuộc phiêu lưu sinh tử.

Quyết định này cho thấy Mushashi đặt nặng trải nghiệm tế hơn suy luận trí óc thuần túy. Đó cũng chính là phẩm chất của người Á đông. Trước những nan đề của cuộc sống, họ không chỉ dùng đầu óc suy luận hợp lý mà còn vận dụng trực giác hầu tìm ra căn nguyên nguồn cội của chúng. Cho nên, người Á đông nghĩ bằng tâm lòng, chứ không chỉ đơn thuần nghĩ bằng trí óc như người Tây phương. Chính vì thế, người Á đông không quản ngại nhảy vào, xía vào lòng đời, sẵn sàng làm những chuyện nhỏ nhặt vặt vãnh như ỉa đái, ăn uống, ngủ nghỉ, đan lát, thêu thùa, trồng tỉa và hài lòng mãn nguyện với tình trạng văn minh kém mở mang của mình. Từ những trải nghiệm thực tế biến dịch tuần hoàn tưởng như tầm thường, hỗn độn đó, họ sống và thể nghiệm ra một ý nghĩa ẩn tàng thâm mật hàm chứa nguyên lý thúc đẩy thành tất cả những hiện tướng đa thù sai biệt trên thế gian. Chân nghĩa chót vời của nó chẳng bao giờ thị hiện nếu chúng ta không đeo cái vòng Kim Cô vào tâm trí hoặc điều phục cái tâm viên ý mã không cho nó vọng động, lăng xăng. Osho đã nói : chỉ khi nào hành giả điều khiển được tâm trí mình như là một bộ phận trong cơ thể, thì lúc đó hành giả mới thực sự giác ngộ. Giống như cái tay là một bộ phận trong cơ thể, ta biểu nó đưa lên thì nó đưa lên, bắt nó hạ xuống thì nó hạ xuống và bảo nó nằm yên thì nó nằm yên… thì tâm trí cũng vậy, bảo nó thôi không suy nghĩ thì nó dừng nghỉ, thôi vọng động, biểu nó suy tư phân biệt thị phi thì nó suy tư phân biệt thị phi. Nói tóm lại, khi nào ta biết ta đang suy nghĩ gì trong từng sát na biến dịch miên tu bất tận, khi đó ta mới vào được cửa Tánh không.

Từ quyết định nhảy vào dòng đời biến ảo không lường, phù du bất tận đó, Mushashi tiếp tục lãnh hội được những huyền nghĩa thâm u ẩn tàng bằng trực giác bén nhậy của mình. Một trong những trực giác đó là nhận thức được cái Cực ý, cái Vô thức, cái Tánh không trong vết cắt nhành mẫu đơn của danh kiếm Yagyu Muneyoshi. Yagyu là một tay kiếm lừng lẫy giang hồ bốn mươi năm trước đây và hiện trở thành một trường phái kiếm đạo chính thống trong giang hồ. Theo Yagyu, cùng đích tối thắng của kiếm đạo là không dùng kiếm. Quan niệm này rất giống với quan niệm vô chiêu thắng hữu chiêu trong kiếm hiệp của Kim Dung. Theo Kim Dung, “Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm, nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao nhiêu, lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hoá ra nước làm thuỷ kiếm, ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm, thì năng lực phát huy được kể như không cùng.” (Đỗ Long Vân, Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, nxb Trình Bày, 1967).

Tuy nhiên, giả như có năng lực biến thành quang kiếm, thì cái đó vẫn gợi nên cảm giác phụ thuộc, bám chấp vào tha lực bên ngoài mà không hoàn toàn trụ vững vào cái bên trong. Thượng Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông đã khẳng định : “Trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.” (Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền). Khi trụ vào cái kho báu trong nhà, tức là cái nội lực lưu tồn bất tuyệt vô thủy vô chung, hành giả đạt được cùng đích tối thắng thượng thừa của kiếm đạo. Kẻ chiến thắng bao giờ cũng là kẻ trước tiên giữ được cái tĩnh trong lòng mình trước những xôn xao vọng động của ngoại giới dù ngoại giới có đang rúng động lung lay. Lúc đó, chỉ cần cái trừng mắt của lão tăng Ozoin, chỉ cần vết cắt trên nhành mẫu đơn, hay chỉ cần một cái phất tay của các giang hồ lãng tử trong kiếm hiệp Kim Dung, hành giả có thể phá tan cả một ngọn núi, tựa như vụ nổ Big Bang thời tiền sử. Và tất cả những phương tiện ngoại lai như cung đao thương kiếm hay chiêu thức hàn lâm sách vở chỉ còn là yếu tố phụ thuộc, trợ đỡ, chứ không phải là cái tâm yếu, cái căn cơ nhờ đó hành giả tiến thoái, công thủ, sống chết, đi về…

Hơn nữa, đối thủ bây giờ không còn là khách thể xù xì được nhận biết bằng giác quan thông thường mà đối thủ đó chính là cái bản ngã, cái con người của chính mình. Cái mà một nhà thơ Nhật bản đã nói rằng : “Hôm qua, một đạo quân, không làm tôi sợ. Chiều nay tôi sợ bóng mình.” Nó vô hình vô ảnh cho nên nó không thể bị tiêu diệt bằng đao kiếm chiêu thức sách vở hàn lâm. Cho nên, cái vô hình vô thanh vô ảnh phải dùng cái vô kiếm vô chiêu vô thế mới có thể thủ thắng. Nếu không, hành giả chỉ là một kẻ vọng tưởng tìm đủ mọi cách bẻ hoa trong gương, mò trăng đáy nước. Henry Miller đã nói : “Nếu chúng ta không chịu tập nhìn chúng ta như những kẻ khác nhìn chúng ta thì vết thương sẽ không bao giờ được lành và chúng ta phải đời đời chịu sống phân ly và ngăn cách.” (trích từ Phạm Công Thiện, Henry Miller, Phạm Hoàng, 1969, tr 104). Gặp những nguy hiểm bên ngoài, người ta vẫn có thể lấy trí năng, kinh nghiệm để chinh phục, hoá giải. Nhưng chiến đấu với chính mình thì ai cũng biết là chỉ có một mất và một còn. Một ta thắng, hai ta thua. Cái ván cờ định mệnh này không có chỗ cho bất cứ một kẽ hở nào. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính, bàn luận, học hỏi chỉ gây thêm nghi ngờ lưỡng lự. Thi đấu nội lực cũng thế, chỉ cần một chút vọng tâm, kẻ đó sẽ tẩu hỏa nhập ma ngay lập tức.

Với quan niệm đó, Yagyu Muneyoshi đã giác ngộ, thấu triệt được lẽ tương dung hòa quyện của trời đất, rồi đem ra suy luận thấy nó bàng bạc khắp mọi nơi. Nhờ ngộ được cái Vô tâm, ông thấy những thế kiếm của mình tự nhiên hơn, nhẹ nhàng và linh động vô cùng, và khi đem dùng vào những công việc nhỏ mọn hằng ngày đối với thiên nhiên và vạn vật thì thấy dễ dàng đồng điệu, hài hòa. Do đó, chỉ việc ông cắt một cành mẫu đơn cũng đủ cho Mushashi thấy công lực thượng thừa của bậc kiếm sĩ tài danh. Chàng đắn đo suy nghĩ : “Hắn rút hoa, so sánh hai vết cắt ở cuống, ngồi thừ người ra suy nghĩ. Hắn chắc đóa hoa này đã được ngắt không phải bằng dao mà bằng kiếm. Mẫu đơn thân thảo, cuống nó mềm và dai, phi một tay kiếm tuyệt luân dùng một lưỡi kiếm cực mỏng chém thì không thể nào có được vết cắt ngọt và gọn như thế ! Bất kỳ ai cắt bông hoa này cũng không phải là người tầm thường.”

Trong câu truyện Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm, tác giả Phạm Xuân Thái cũng đã miêu tả khá sinh động cái vết cắt trên cành Sơn Huyết Đào, một loại hoa quý hiếm chỉ mọc ở ghềnh đá trên đỉnh những ngọn núi cao như ngọn Fuji. Thân nó cứng như gỗ Lim, hoa đào chín cánh, mầu đỏ huyết dụ, được gìn giữ bởi những gai đào tua tủa. Sơn-Huyết-Ðào rất hiếm, cả nước Nhật có lẽ chỉ có khoảng vài cây. Những loài hoa như thế chỉ có thể bị chinh phục bởi những tay kiếm có nội công thâm hậu có thể làm rung chuyển cả vũ trụ. Còn nếu như những kẻ tiểu nhân luôn mang mặc cảm bầy đàn sẽ chẳng bao giờ có dịp diện kiến những đóa hoa tinh khôi, rực rỡ của cành hoa, ấy là chưa nói đến việc cắt hoa mang về.

Thiên hạ đệ nhất kiếm Genshin Yamamoto đã có được nhân duyên đó khi chàng tìm mọi cách tỷ thí với lão tăng Osawa Takahashi, mặc dù lão tăng tìm mọi cách để từ chối. Khi tối hậu thư được đề ra là : Nếu trong ba ngày lão tăng không chấp nhận tỷ thí, Yamanoto sẽ làm cỏ chùa Shiga. Đến sáng ngày thứ tư thì hắn nhận được một cành Sơn Huyết Đào. Nhìn cành hoa, hắn đăm chiêu tư lự, chợt hắn thét lên kinh hoàng chạy ra trước cổng chùa sụp lạy trăm lạy. Tác giả giải thích như sau : “Ðường kiếm, nội công, và mức độ chính xác của thanh kiếm do đại lão hoà thượng Osawa Takahashi điều khiển, đã lên tới mức thượng thừa, Genshin Yamamoto chưa phải là đối thủ: thân Sơn-Huyết-Ðào, cứng như gỗ Lim đã bị tiện đứt phẳng lì; tất cả gai chung quanh các cánh hoa đều bị cắt đứt, không để lại một dấu xước cho thân cây; hoa Sơn-Huyết-Ðào, không một cánh bị gẫy bởi sức mạnh hoặc độ rung của thanh kiếm, vẫn đang khoe sắc thắm và nhẹ rung trong gió. ” Đó cũng chính là ý nghĩa của câu ca dao tục ngữ của cha ông ta : Dao sắc không bằng chắc kê. ‘Chắc kê’ ấy chính là các nội lực thâm mật ẩn tàng khả dĩ làm cho vạn sự chuyển động bất tận trong lòng vũ trụ bao la.

Như thế, chỉ cần một vết cắt trên nhành mẫu đơn, bậc cao thủ có thể phân biệt được thắng thua, được mất. Trong cuộc lữ miên trường, Mushashi đã có thêm một bằng chứng hùng hồn về công lực thượng thừa của các bậc giác ngộ. Họ hoàn toàn là người tự lực tự cường tinh tấn dũng mãnh, không bao giờ nương tựa vào ngoại vật hay mong cầu nơi thần thánh. Họ đều là người tự chiến thắng chính mình và từ chiến thắng đó, họ áp dụng nhuần nhuyễn vào từng công việc nhỏ mọn hằng ngày một cách nhịp nhàng, trơn tru, thanh thản. Chính vì thế mà Mushashi cảm thấy vô cùng buồn bã khi chàng đạp phải cây đinh khiến cái chân mưng mủ hành sốt. Chỉ cần một việc nhỏ như thế cũng đủ cho chàng thấy mình còn xa vô cùng trên con đường kiếm đạo tìm về Chân Thiện Mỹ. Chàng tự trách về sự non kém của mình như sau : “Theo tiêu chuẩn của hắn thì như vậy là hắn thua cái đinh. Là Samurai, hắn đã không cảnh giác đến nỗi cái đinh nằm nhô đầu lên rõ ràng như vậy mà không tránh nổi : giác quan của hắn chưa đủ linh mẫn. Tệ hơn nữa, sự phản ứng lại chậm chạp để đầu đinh xuyên qua dép và sâu trong gan bàn chân. Đáng lý ra hắn phải nhảy tránh ngay khi cảm thấy mũi đinh chạm vào da mới phải.”

Kể từ khi bước chân vào con đường kiếm đạo, chàng luôn bị ám ảnh bởi sự hoàn thiện. Nhiều lần, nhất là lần đạp phải cây đinh, đã làm cho lòng tự tin vào chính mình bị lung lay. Và đây có lẽ chính là yếu tố quan trọng nhất trong tiến trình giải thoát chính mình. Vivekananda đã nói : “Lịch sử thế giới là lịch sử của một số ít người có lòng tự tin nơi mình.” Lòng tự tin chính là khối nam châm, là cơn lốc xoáy, là thấu kính hội tụ thâu dồn ngàn muôn đại địa về một mối, rồi tiếp tục điều động, chuyển hóa và cuối cùng phun trào ra ngàn muôn vạn pháp như hỏa diệm sơn phun trào phún thạch. Tự tin chính là yếu tính của thiên tài. Vivekananda nói tiếp : “Hãy tin vào bạn trước rồi sau đó mới tin vào Thượng Đế.” (Believe first in yourself, and then in God). Ấy cũng chỉ là lối nói bạo hành cưỡng bách, bởi Lục Tổ Huệ Năng đã nói : “Bản lai vô nhất vật” rồi, làm gì có tôi và Thượng Đế để tin vào. Giải đáp những thắc mắc đó, chàng đã tìm đến những hang núi cao sống đời cô tịch, lấy đá sỏi, rừng cây, muôn thú để tìm giải đáp cho những suy tư khắc khoải của mình.

Đây có lẽ cũng là phương thế mà hầu hết các tôn giáo dùng để tu dưỡng tinh thần. Kitô giáo thì có những thời kỳ tĩnh tâm. Còn Phật giáo thì có những kỳ an cư kiết hạ… Nhờ đó mà hành giả được nuôi dưỡng tín tâm, được nghe pháp, được chánh pháp soi đường dẫn lối vượt qua những chướng ngại gió quỷ nhà ma liên tục thét gào đòi an nhàn dễ dãi. Hơn nữa, nhờ những tháng ngày sống cô tịch đó, Musashi đã dần học được cách khám phá những tia sáng phát ra từ cái Chân Tâm Phật tính, cái Bản Lai Diện Mục của mình hơn là đi tìm ánh sáng chân lý phát ra từ hừng đông, từ thần thánh… Cần phải bị xua đuổi cho đến tận đỉnh núi cuối cùng, nơi đó chỉ còn một hòn đá vừa đủ cho một bàn chân cheo leo giữa hai bờ vực của sự sống chết. Cần phải thai nghén tuyệt vọng; cần phải cưu mang trăm ngàn đắng cay chết chóc, thất bại, tủi nhục, hổ ngươi; cần phải chết đi trong lòng người, thối rữa trong lòng mình… có như thế ta mới phục sinh, mới tái ngộ, mới quy hồi về cố quận nguyên thôn. Lúc đó, hành giả sẽ hát ca : “Đầu non mây trắng bay. Nhẹ tênh lòng thế sự. Nghìn năm không trú xứ. Chân như, cánh hạc gầy.” (Sekishusai)

Chúng ta nên hiểu, sự cô đơn ở không phải là hệ lụy của một tâm hồn bạc nhược, mặc cảm, tự ti sống trong cái tôi ích kỷ hèn hạ của mình. Chỉ vì không thể nào hòa nhập được với đời thường nên tự mình khép kín phòng the, tường đông ong bướm đi về mặc ai. Trong tác phẩm Thiền Luận, Suzuki đã mô tả tỉ mỷ cái nỗi cô đơn của hành giả đi tìm cái Nhất Như như sau : “Trong kinh Lăng già chúng ta có sự kiện này, gọi là pháp viễn ly (viviktadharma). Kinh nghiệm về pháp đó hình như đánh thức tình cảm về sự đơn độc vĩnh viễn. Cái đó không có nghĩa rằng chúng ta đều có cảm giác cô liêu và săn đuổi một sự thể nào đó rộng hơn và mạnh hơn chính mình. Tất cả những tâm hồn của tôn giáo ít nhiều đều có cưu mang tình cảm này; nhưng điều mà tôi muốn nói ở đây không phải là sự cô liêu theo kiểu đó, nhưng sự cô liêu của một thể tính tuyệt đối, nó ngự trị trên chúng ta khi một thế giới thiên sai vạn biệt vận hành dưới những điều kiện không gian, thời gian, và nhân quả bị bỏ lại đàng sau, khi tâm linh lớn cao trong bầu trời và trôi nổi tự do theo ý muốn như một cụm mây lang bạt.” (D.T. Suzuki, Thiền Luận, Quyển Hạ, dg Tuệ Sĩ, nxb An Tiêm, 1973, tr 535).

“Ngươi hãy trở nên con người của chính ngươi” (Deviens ce que tu es) không chỉ là một yêu sách tuyệt đối mà còn là một ân huệ tối cao. Chính vì thế mà Musashi đã hiện hữu một cách thô kệch, xù xì ; rồi từ đó chàng dần dần gạt bóng ra khỏi hình, vén màn vô minh, mở phơi chân diện mục ẩn tàng từ vô lượng kiếp luân hồi trong gió quỷ khí ma và phục hoạt cái Chân như hằng tồn cưu lưu trong tự tánh của mình. Và cho đến cuối cùng chàng đã phục sinh, sáng tạo ra chính con người của mình. Con đường sáng tạo đó đòi buộc chàng phải vượt qua tất cả những gai góc, lao nhọc, thống khổ cốt làm sao đạt được cái Cực ý của kiếm đạo và cũng để cho cái Tiểu ngả huyền đồng cái Đại ngã của vũ trụ. Chàng nghĩ : “Ta vẫn tự nhủ: nhất định không mong nhờ ai điều gì mà sao vẫn còn hy vọng ở họ lòng thương yêu ? Thật là ngu xuẩn và dại dột. Ta phải quyết tâm và ghi điều này lên giấy mới được !”

Để chứng tỏ sự quyết tâm không lùi bước, Musashi đã ghi những quyết tâm của mình lên giấy. Lúc đầu là : “Ta muốn không có điều gì phải hối tiếc”. Nhưng điều đó vẫn mang dấu vết của bản ngã, trong đó có cái ta đối lập. Ở đây, ta có thể ví nó giống như cảnh giới thứ nhất (Ðoạt Nhân Bất Ðoạt Cảnh) trong Tứ Liệu Giản của thiền sư Lâm Tế. Trong cảnh giới này, hành giả bị ngoại cảnh thu hút mạnh mẽ đến nỗi hành giả không còn ý thức về mình. Sự hiện hữu của mình đã bị vong thân bởi ngoại cảnh tác động. Điều này khiến hành giả rất dễ khổ tâm, ưu phiền, lo lắng trước những giả hợp của thế giới. Muốn đi tiếp, hành giả phải vượt qua và thể nhập vào cảnh giới thứ hai (Đoạt cảnh bất đoạt Nhân). Vì thế, Musashi cần tìm một câu ngắn gọn, súc tích mà ý nghĩa thực chứng hơn để có thể nhắc đi nhắc lại hàng ngày. Chàng bèn sửa: “Ta sẽ không hối tiếc những điều ta làm”. Ở đây, ta thấy, vế thứ hai có chủ từ ‘Ta’, điều đó chứng minh rằng, Musashi đã vượt qua loại hai mà thể nhập vào ngay loại thứ ba (Nhân Cảnh Lưỡng Câu Ðoạt). Đây chính là giai đoạn hồi quang phản tỉnh, tức là tâm trí tự nhận biết chính mình, hay tâm trí ý thức rõ ràng mình đang suy nghĩ về điều gì. Nhưng vẫn còn chủ thể khách thể, cần phải vượt qua cả chủ lẫn khách để chỉ còn là hành động thuần túy, vô vi, làm mà không có chủ thể làm, không có đối tượng để nhắm tới, và chàng lại sửa lần nữa: “Không làm những gì phải hối tiếc.” Ở đây, chủ từ ‘Ta’ đã biết mất. Cái tiểu ngã đã hòa quyện vào cái Đại ngã. Nó tương tự với Loại thứ bốn (Nhân Cảnh Câu Bất Ðoạt), tức là tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh. Ở cảnh giới này, hành giả thỏng tay vào chợ, trở lại với thế giới bình thường mà tâm vẫn an nhiên tự tại. Niệm khởi thì tâm biết niệm khởi, không mảy may phán đoán hay dở tốt xấu, cũng chẳng vọng tưởng mê lầm đuổi theo.

Như thế, ‘Không làm những gì phải hối tiếc’ đã đạt được cái vô vi nhi vô bất vi, tức không làm mà không có cái gì là không làm của Lão Tử, đồng thời cũng cho thấy cái tinh thần vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Chàng đã bớt đến nỗi ngay cả cái tôi chủ thể của mình, chàng cũng không buồn nhắc tới. Có thể nói, với câu kệ này, Musashi một khi thực hiện được thì chắc chắn chàng sẽ nhập vào cảnh giới Ly Tứ Cú, Tuyệt Bách Phi, còn có nghĩa là Chân không vô tướng bất khả đắc. Trong đó, Tứ cú là “Hữu, vô, diệc hữu diệc vô, phi hữu phi vô” hoặc chỉ “khẳng định, phủ định, bộ phận khẳng định bộ phận phủ định, cả hai đều phủ định” để phán đoán và nghị luận được mất đúng sai. còn Bách phi chỉ hàng trăm loại phủ định. Kinh Bắc Bổ Đại Niết Bàn nói rất nhiều phủ định về Niết bàn của Như Lai là phi hữu, phi vô, phi hữu vi, phi vô vi, phi hữu lậu, phi vô lậu, cho đến phi quá khứ, phi vị lai và cả phi hiện tại. Nói tóm, ly tứ cú, tuyệt bách phi là pháp môn tối thắng thượng thừa chí cực bất khả tư nghì của Phật giáo, tức là vượt lên trên tất cả những giả danh, biểu tượng của ngôn từ ngữ nghĩa mà đạt đến cảnh giới ‘ngôn vong lự tuyệt’.

Chi tiết tiếp theo cho ta thấy tính cách tự lập tự cường của Musashi khi chàng hét lên : “Tự lập ! Ta phải sống cuộc đời tự lập ngay trong lòng ta !” Đó chính là con đường của kẻ sáng tạo, con đường của kẻ khai sinh ra mình và thế giới. Kẻ nào không tự lập ngay trong lòng mình, kẻ ấy suốt đời làm dế giun luồn cúi trong bóng tối vô minh. Kẻ đó sẽ bị cuốn hút, trói buộc vào bánh xe sinh tử luân hồi, dù cho họ có làm ra vẻ đứng đắn bằng cách gọi nó là cuộc đời bể khổ triền miên, làm sao hết được ưu phiền lắng lo. Cho nên, cần phải triệt để gỡ mình ra khỏi tất cả những hệ lụy của đền đài thành quách bấy lâu đã làm rêu phong phủ kín che mờ khuất lấp lối mòn trở về Cố quận nguyên thôn ; cần phải rũ mình ra khỏi ngay những kinh nghiệm mà mình đã tích lũy trong trường đời gai góc đắng cay, cho dù kinh nghiệm đó có được mua bằng máu hay nước. Việc này đòi hỏi phải có một nỗ lực tàn bạo, dã man, kinh khủng mới có thể thi hành được. Cái khó khăn nhất chính là điều mà bất cứ khi nào chúng ta chọc thủng bức màn vô minh phiền não, thì cũng là lúc cuộc đời phỉ nhổ lên án ta, thậm chí chính chúng ta cũng dè bỉu khinh thường chúng ta. Thế nhưng, tội lỗi lớn nhất chính là lúc ta để cho kẻ khác, hay ngoại tại chiếm hữu mình. Và cái tội lớn nhất chính là cái tội để cho Thượng Đế hữu ngã chiếm hữu mình. Chính vì vậy, Novalis mới nói : “Thủ đắc cái Tôi siêu việt của mình, đồng thời là cái Tôi của cái Tôi của mình.” Rimbaud cũng không đi ngoài con đường đó khi chàng nói : “Đả đảo lịch sử !” (A bas l’histoire!). Còn Nietzsche thì gầm rống lên rằng : “Thượng Đế đã chết.” Lúc đó, cả Thượng Đế cũng buộc phải bỏ đi, dùng kiếm báu mà phanh thây mổ gan Thượng Đế, giống như Đan Hà chẻ tượng Phật làm củi xua tan tuyết lạnh mùa đông, giống như Tilopa ăn cá vứt xương bừa bãi ngay trong chánh điện nhà chùa, giống như Eckhart cầu nguyện : “Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi chính ngài.”

Tiếp đến, dù luôn tự nhủ lòng mình phải tự lập, phải tỉnh thức trong từ sát na niệm tưởng, nhưng Musashi vẫn có những giây phút mê vọng, khinh thường người khác. Chi tiết chàng bất cẩn để cụ Osugi chém trúng cườm tay và phóng cây trâm cài tóc vào mắt cho thấy Musashi không chỉ khinh địch, một điều tối kị trong binh thư, mà còn chưa đạt được cái Vô tâm, cái Đại ngã huyền đồng khắp nơi trong vũ trụ. Một khi thể nhập vào Đại ngã ấy thì mọi chi tiết, dầu cho nhỏ nhặt đến đâu, cũng là một nhịp trong tiết điệu của bản giao hưởng vũ trụ mênh mông. Khinh thường cái nhỏ bé đồng nghĩa với việc coi thường và hủy diệt chính mình.

Có thể nói, những chi tiết nhỏ như trên có rất nhiều trong suốt cuộc hành trình đơn độc, gian khổ của Musashi. Mỗi một chi tiết là một bài học đắt giá trong tiến trình mở phơi cảnh giới mà kinh Hoa Nghiêm gọi là Châu biên hàm dung, Hỗ tương nhiếp nhập, Nhất đa tương dung hay Viên dung vô ngại. Tuy nhiên, cơ hội thể nhập cảnh giới vô ngại đó thường diễn ra khi Musashi đối diện với lưỡi gươm của địch thủ. Giữa một bên là sống và một bên là chết, toàn thể con người chàng từ gót chân cho đến sợi tóc trên đỉnh đầu đều tập trung vào đôi mắt đổ ánh xung quang. Như người đi dây giữa vực thẳm, chàng cảm thấy lâng lâng và thân thể nhẹ như bông tuyết lơ lửng giữa không trung. Vũ trụ dường như là sự nối dài của chính mình và chàng dường như muốn tan vào vũ trụ. Mọi sự chỉ còn rỗng không trong suốt đến nỗi chàng thấy mình thấu triệt mọi lý lẽ cơ mật huyền vi lạ lùng.

Sau này chính Musashi đã viết lại trải nghiệm của mình lúc lâm trận : “Trong đấu pháp, bạn phải giữ tâm trạng lúc nào cũng bình thường. Giữa cuộc sống hằng ngày cũng như khi thực hành võ thuật, chẳng chút thay đổi – với tâm trí phơi mở và trực tiếp, không căng thẳng không nghiêm trọng, bạn tập trung tâm trí để không mất quân bình. Trầm lặng thư giãn tâm trí và tận hưởng khoảnh khắc ung dung ấy để sự thư giãn không ngưng lại dù chỉ một chớp mắt.” Trong cái sát na sống chết đó, con người trực nhận được cái lẽ vô thường của vũ trụ. Nhưng chỉ có một nẻo đường duy nhất vượt thoát được lẽ vô thường đó là làm sao cho bản ngã của mình hòa điệu, tương dung, hợp nhất với sự biến dịch không ngừng của vũ trụ một cách như nhiên, tự nhiên, thong dong nhịp nhàng. Chỉ khi nào người cầm kiếm thể nhập vào cảnh giới không còn địch thủ, không khiếm, không còn chiêu thức và cũng không còn chính bản thân người cầm kiếm, thì chính cái lúc – mà Kinh Viên Giác miêu tả là : Sanh tử niết bàn do như tạc mộng – sẽ đưa hành giả vào trạng thái Kiếm thiền Nhất như.

Một khi hành giả không phân biệt sống và chết thành hai trạng thái đối nghịch, nói cách khác là khi tâm bất động, ở vào trạng thái tịch tĩnh hoàn toàn, thì mọi sự phân biệt năng sở tôi anh đều tự chúng tan biến, và cũng vì thế mà mọi sự sợ hãi, hư vô, hố thẳm đều hóa giải, dung nhiếp vào thể tánh Nhất Như bất khả tư nghì. Hơn nữa, tất cả hư vô vực thẳm nhầy nhụa đều có thể hóa thành cực lạc thiên thu. Chính Musashi đã khẳng định : “Dưới lưỡi kiếm đưa cao. Dù gặp địa ngục. Hãy tiến bước. Cực lạc là đây.” Lúc mà hành giả không còn quá khứ để hồi tưởng, cũng không còn tương lai để mơ mộng viễn vông, ngay cả hiện tại cũng không còn là đối tượng biến thành có có không không hay để biểu tượng đặt tên thì cực lạc tiêu diêu sẽ mở phơi thông suốt.

Cuộc chiến với Kojiro đã đưa chàng lần đầu tiên thể nhập vào cảnh giới đó. Lời miêu tả của Yoshikawa về chi tiết này thật là một áng văn hùng tráng bất hủ. Kẻ chiến thắng thì không kiêu căng tự đắc, còn kẻ chiến bại thì mỉm nụ cười an nhiên mãn nguyện hài lòng. Cuộc chiến đẫm máu mà không một chút hận thù oán than. Tất cả diễn ra như một giấc mộng, một cơn mơ, một làn hoa đốm giữa trời không. Kinh Kim Cương đã nói : “Tất cả pháp hữu vi. Như mộng huyễn bào ảnh. Như sương như điện chớp. Hãy quán sát như vậy.” Quang cảnh đó vô tình đã nói lên toàn bộ ý nghĩa của Kinh Kim cương. Khi Musashi bỗng thấy người nhẹ tênh như mây nổi giữa trời, thì cũng chính là lúc chàng thể nhập vào ý nghĩa tót vời của lời kinh. Thêm vào đó, giống như kẻ xuất thần, chàng không còn cảm thấy mình đứng trên mặt đất nữa mà như đã huyền đồng với Vô tâm chiếu diệu. Niệm tưởng tới đâu, các bộ phận khác trong cơ thể vận chuyển theo liền đến đó. Không chậm trễ, không ngượng ngùng, không khó khăn, không mảy may sai lệch mà tự nhiên như nhiên thông suốt nhịp nhàng. Có vẻ như khối óc chàng phân thân nằm sẵn trên vai, trên cánh tay, trên bắp chân, ở khắp nơi trong người hắn. Bất kỳ một cử động gì của địch thủ, dù chỉ là một cái chớp mắt, muôn ngàn kinh mạch và thớ thịt của chàng sẽ phản ứng ngay tức khắc. Tâm, thân đạt tới mức hoà đồng, phối hợp như vậy quả là trác tuyệt.

Trận đấu cuối cùng này cũng chính là cái mốc điểm quyết định để Musashi không còn sử kiếm như vật bất ly thân. Thay vào đó, chàng bẻ kiếm và khởi đầu một chặng đường mới gian nan, nguy hiểm và gai góc hơn nhiều. Chàng không còn để tâm chú ý đến kỹ thuật hay chiêu thức. Nhất là ý muốn chiến thắng hay chứng tỏ mình cao siêu hơn kẻ khác đã bị chàng hủy diệt không còn một chút mầm mống bám dễ ăn sâu vào tiềm thức. Người kiếm sĩ Musashi đã đi đến cùng đích của con đường Kiếm đạo, an nhiên tự tại, không còn bị thế sự ràng buộc. Thanh kiếm của họ giờ đây trở thành vô tâm kiếm, và kỹ thuật chiến đấu giờ đây trở thành kiếm vô sở trụ tâm pháp.” Từ đây, Musashi mới đi vào huyền nghĩa của câu nói : “Phùng Phật sát Phật, Phùng Tổ sát Tổ. Phùng ma sát ma.”

Tạm kết

Tổ sư Vương Trùng Dương, khi dạy đạo cho vợ chồng Mã Ngọc và Tôn Huyên Trinh có nói : “Sát sanh thăng thiên đường, phóng sanh đoạ địa ngục.” Henry Miller đã kể câu truyện tên cướp giết người thứ 53 mà lòng chẳng còn chấp trước là mình có bị phạt đọa địa ngục hay không thì lại bỗng nhiên đại ngộ. Trong kinh Bhagavad-Gita, Krishna đã thúc giục Arjuna như sau : “Là một chiến sĩ, bổn phận của ngươi là chiến đấu. Không có gì cao cả cho bằng chiến đấu vì bổn phận. Trốn tránh bổn phận là một tội lỗi, là ô danh. Ô danh còn tồi tệ hơn là chết. Hãy sẵn sàng chiến, không đếm xỉa gì tới vui buồn, được thua sống chết. Arjuna! Hãy đứng lên và thi hành nhiệm vụ.” (Bhagavad-Gita, II, 11-38). Nietzsche cũng đã nói như thế trong Zarathustra : “Mi đi trên con đường cao cả của mi : bây giờ lòng can đảm tối hảo của mi là cảm thấy mi chẳng còn con đường nào sau lưng nữa. Ở đây chẳng còn ai theo mi cả! chính bước chân của mi xóa con đường sau mi và trên con đường của mình có đề biển ‘bất khả!’.”

Một cách nào đó, Musashi cũng đã ngộ ra được rằng, toàn thể càn khôn đại địa mà con người có thể quan sát được đều chỉ là huyễn mộng, là giả tưởng, là phù du. Tuy nhiên, đằng sau những giả tưởng đó chính là cái Đạo, Phật tính, Chân tâm, Tự ngã, Thái cực thì là hằng tồn miên viễn bất diệt. Do đó, lưỡi gươm dù cho có được rèn bằng ngọc thạch hay kim cương thì cũng chỉ là giả hợp. Cái giả hợp, tạm thời, vô thường cũng chỉ có thể hủy diệt những thứ có bản tính tương tự với nó mà thôi. Trái lại, chúng chẳng có thể làm gì gây hại cho cái ẩn tàng mông lung bàng bạc rộng khắp muôn trùng nhân gian. Lo sợ, thương cảm, ưu tư cho chính thân phận mình, thân phận kẻ khác hay bất cứ một sinh vật nào đều chỉ là những thứ tình cảm lảm nhảm, ủy mị, cải lương. Bởi những tình cảm như thế chỉ khiến cho ta bám chấp vào tính vô thường trong từng sát na điệp trùng. Điều đó giống như kẻ qua sông bằng chiếc đò, khi đến bờ bên kia, thấy mình cần phải trả ơn cho chiếc đò, nên tiếp tục vác chiếc đò lên vai để tỏ tấm lòng biết ơn của mình cho người đời ngợi ca. Những kẻ như thế, Krishna cảnh báo rằng : “Ngươi không được tỏ lòng thương hại vì tự ngã không cần lòng thương hại. Các bậc hiền trí không tỏ lòng thương hại đối với người chết cũng như người sống.” (Bhagavad-Gita, II, 16-17). Chính vì thế mà mỗi khi lâm trận, Musashi không bao giờ thương hại hay khinh thường địch thủ. ‘Giết’ chính là bổn phận của chàng. Chàng đã hành động không vì bất cứ một nguyên nhân hay hậu nào của hành động, nên chàng đã được giải thoát. Krishna nói tiếp : “Kẻ nào hành động không vì hậu quả của hành động thì kẻ ấy là người thực sự giải thoát.”

Thêm vào đó, Musashi còn là một con người tự lập theo đúng ý nghĩa nguyên thủy của nó. Toàn bộ cuộc đời của chàng có thể tóm gọn bằng chữ ‘Vô’. Dù chưa bao giờ tham công án ‘Vô’ của Triệu Châu, nhưng suốt cuộc đời Musashi ăn ngủ, ỉa đái, hít thở chữ ‘Vô’ trong lòng mình. Cho đến lúc chàng bẻ kiếm lúc 31 tuổi, tài sản quý giá nhất mà chàng mang theo suốt giai đoạn giang hồ binh biến loạn cuồng, thì chữ ‘Vô’ bất chợt hóa thân thành ‘Hữu’, để rồi 30 năm sau, khi đặt bút viết tác phẩm Ngũ Luân Thư, thì chữ ‘Vô’ lại trở thành ‘Vô’ và ‘Hữu’ lại hóa thành ‘Hữu’. Bao nhát kiếm oan nghiệt chém chết bấy nhiêu mạng người giờ bỗng chỉ còn là một hạt cát chứa đựng cả càn khôn đại địa hay chỉ là nghiệp chướng trùng trùng duyên khởi. Ấy thế mà hạt cát không hề lớn lên và đại địa cũng không hề nhỏ lại. Tâm bình thường đã được Musashi đại ngộ. Cho nên, dù chưa bao giờ đọc Bát nhã tâm kinh, nhưng những lời của ông thì tương đồng một cách kỳ lạ với Bát nhã. Đỗ Hữu Tài đã viết về Musashi trong tác phẩm Như Thị Ngã Văn như sau : “Ông nhận định về thanh kiếm như một ngoại vật vô thường, có đó nhưng không đó; về người múa kiếm như một tha nhân vô ngã, vừa có thật vừa không có thật; về kiếm thuật như một nghệ thuật vô hình vô tướng; và về các kiếm phái khác như cõi ta bà chứa đầy mộng ảo bào ảnh. Cũng trong bốn chương nầy, ông luận về các sách lược đấu kiếm thông qua hai phạm trù diệu hữu và chân không, cho rằng trong vọng tâm, kiếm và kiếm sĩ đều có thật, nhưng không thật có vì giả hợp. Cho nên có đấu kiếm mà vẫn không có kiếm đấu.”

Đây cũng chính là tinh thần ưng vô sở trụ của kinh Kim Cương. Có thể nói, từ nhỏ đến năm 30 tuổi, Musashi tung hoành ngang dọc trong chốn gió tanh mưa máu, biết bao oán hận căm thù chồng chất, biết bao máu nóng tuôn trào, biết bao xương trắng phơi bày trên thảm cỏ non bỗng chốc trở thành mộng, mộng về trùng điệp bủa vây, phù du hư huyễn ngập đầy hư không. Chính tinh thần xả ly vô trụ đó đã giúp Musashi đứng dậy, thanh thoát nhẹ nhàng đưa tay phủi đám bụi hồng, ngẩng đầu gầm rống giữa rừng cô liêu, cho Tâm tĩnh tịch giữa nhiều, điệp trùng dâu bể trăm chiều đa đoan.

Còn nhiều và rất nhiều cái để nói, để bàn về Musashi, nhưng dẫu có viết thêm hàng ngàn trang sách mà bản thân người viết không tinh tấn dũng mãnh, không vi nhật tổn, không lìa tứ cú tuyệt bách phi, không tự nhận là lời quê góp nhặt chỉ để mua vui canh dài, không hủy thể luôn cái hủy thể… thì chẳng những không được ích gì mà còn tốn kém thời gian người đọc người đăng. Sắc tức thị không, không tức thị sắc, viết rồi không viết, rồi không còn cái không viết, rồi không còn cái không còn viết, cho đến khi hư vô tràn về như thác lũ, người viết hóa thành trang giấy tràn đầy chi chít chằng chịt chữ nghĩa, chữ nghĩa hóa thành song kiếm sử dụng vô chiêu lấy máu bôi xóa, chẳng còn dấu vết của chính nó. Trong cái sát na đó, giấy và người, người và giấy hóa thành mênh mông trong tiết tháng ba, nghĩ về kiếm sĩ mà lòng cảm thương, thương cho kiếp sống vô thường, một đêm giao hợp với phường dế giun, máu xương tinh thể muôn trùng, vác gươm chép Phật mịt mùng bủa vây, mang hình với bóng phân thây, lựa hình bỏ bóng cho đầy nhục thân, đem hình bỏ dưới đáy quần, của nường vừa mới vào tuần hành kinh, tụng thầm Bát nhã tâm kinh, có không không có bóng hình hư vô…

Nguyễn Minh Vương

Source : damau.org