Thứ Hai, 9 tháng 8, 2010

Xristov, Boris : Nỗi buồn | Tiếng kèn đêm | Ký ức cuộc đời

Xristov, Boris Nỗi buồn | Tiếng kèn đêm | Ký ức cuộc đời

Bản dịch Hoàng Ngọc Biên




BORIS XRISTOV
(1945~)

Boris [Kirilov] Xristov (cũng viết là Hristov, Christov, hay Christoff) là một nhà thơ và nhà văn nổi tiếng của Bulgarie. Ông sinh ngày 14 tháng Tám 1945 tại Krapets, Pernik, tốt nghiệp ban ngôn ngữ và văn chương Bulgarie tại Đại học Veliko Tarnovo năm 1970. Ông từng dạy học ở Pernik [1971-1972], trước khi làm báo và làm biên tập cho các tạp chí văn chương và các xưởng phim, trong đó có Sofia Feature Film Studio. Ngoài tiểu thuyết, ông còn viết nhiều kịch bản cho phim truyện, phim tài liệu và phim hoạt hình. Sau tập thơ đầu tiên Tiếng kèn trompet đêm [“Вечерен тромпет”, Varna: G. Bakalov, 1977/2000], tiếp theo là Thánh giá [“Честен кръст”, Varna: G. Bakalov, 1982 – bản tiếng Anh xuất bản sau đó có tên là Holy Cross, 2000], Boris Xristov cho xuất bản Cha của trứng [“Бащата на яйцето”, tiểu thuyết, D. Danov, 1987], Con chó mù [“Сляпото куче“, tiểu thuyết ngắn, Varna: G. Bakalov, 1990], Thung lũng của những chiếc giày [“Долината на обувките”, Varna: G. Bakalov, 1990], Lời nói và graffiti [“Думи и графити”, 1991/2002], một số các tập thơ và truyện xuất bản bằng tiếng Anh như The Wings of the Messenger [Petrikov Publishers, 1991 - tập trung một số bài thơ trong hai tập Evening trumpet và Cross My Heart, một số bài thơ 3 dòng trong Mots et dessins, và tiểu thuyết ngắn Death Spots [“Смъртни петна”], Words on Words [“Думи върху други думи”, 1990/1992], Thơ [“Поезия”, 2004]... Kể từ tuyển tập mở đầu Ba nhà thơ trẻ [“Трима млади поети”, Sofia, 1975 – qui tụ ba thi sĩ hàng đầu của Bulgarie thời bấy giờ: Parushev Parush, Ekaterina Tomova và Boris Christoff] cho đến gần đây với tập Giấy đá [“Каменна книга“, Nxb. Helicon, 2006] thơ Xristov luôn nổi bật một tiếng nói chân thành từ trái tim nhà thơ, và từng được dịch ra tiếng Anh, Đức, Nga, Ý, Pháp và nhiều ngôn ngữ khác.

Những năm 90 ông khởi sự biên soạn một số tuyển tập văn học Bulgarie, trong đó có thể kể Tuyển tập truyện ngắn Bulgarie thế kỷ XX [“Български разкази на ХХ век”, 1995], Văn học dân gian [“Народни писмена”, 1995], Veda Slovena [*] [“Веда Словена”, 1998]... – và cùng thời gian này những tìm tòi của ông hướng tới những mô thức biểu hiện mới bắt đầu hình thành nơi tác phẩm ông một kết hợp đẹp đẽ thơ ca, âm nhạc và nghệ thuật tạo hình.[**]

Xristov từng nhận nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải thưởng cho tiểu thuyết viết về những chủ đề hiện đại dành cho cuốn Cha của trứng – tác phẩm sau đó được chuyển thể cho kịch bản điện ảnh – và Giải thưởng lớn về Văn chương của Đại học Sofia Климент Охридски năm 2000. Từ nhiều năm nay ông sống với vợ và gia đình tại làng Leshten trên núi Rhodope thuộc thành phố Gotse Delchev ở Bulgarie. Cũng cần nhắc thêm Boris Xristov từng tham dự chương trình International Writer’s Program của Đại học Iowa và Hội thảo văn học Wheatland Foundation Conference ở San Francisco, đồng thời thường xuyên tham dự những buổi đọc thơ ở Washington D.C, New York, San Francisco, Toronto, Munich, Hamburg, Athens, Delhi...

Mặc dù vẫn được coi là gương mặt đại diện cho văn học hiện đại Bulgarie, và tác phẩm được đưa vào chương trình văn chương ở các trường học, ngày 26 tháng Năm 2010 vừa qua, khi nghe báo chí truyền thông đưa tin mình được Hội đồng Bộ trưởng quyết định trao Huân chương Cyril và Methodius hạng Nhất [St. Св. Кирил и Методий” – dành cho sự nghiệp xuất sắc trong lĩnh vực văn hóa], B. Xristov đã viết thư gửi chính phủ Bulgarie khước từ phần thưởng này, viện cớ là “đã từ lâu [ông] có quyết định không nhận bất cứ giải thưởng nào của Nhà nước, cho dù đảng cầm quyền là đảng nào...”


_________________________
[*]Veda Slovena là một tuyển tập những bài dân ca và truyền thuyết của người Bulgarie theo đạo Hồi.


[**]Ngoài tập The Wings of the Messenger của Nxb. Petrkov Publishers [1991] với nhiều tranh minh họa của Yana Levieva dành cho phần thơ 3 dòng, bạn đọc có thể theo dõi tác phẩm của Boris Xristov thực hiện qua CD và qua các ấn bản song ngữ tiếng Bungarie và tiếng Anh / tiếng Pháp như Mots et dessins, với minh họa của Milko Bojkov; Des Mots, de l'argile et des dessins, minh họa của Zahari Kaménov; Un Livre de pierre, với phần nhiếp ảnh của chính tác giả; Words on Words [bản dịch của Betty Grinberg, Roland Flint, Lyubomir Nicolov - với tranh minh họa của Anri Koulev], Nxb. Petrikov Publishers, 1990.



__________

Nỗi buồn


Chúng ta có thể đi đâu, có thể trốn ở đâu
trong thành phố này, trong trạm ga mùa hè này.
Chim trên trời không dám bay –
đánh một viên đá, một ngọn lửa sẽ cháy bùng.

Giờ khắc buổi chiều trôi qua chậm rãi,
như có ai đó đang học cách chơi,
và đâm thẳng vào những con tàu xanh
lồng ngực xăm hình của chúng ta.

Từng cặp từng cặp dưới vành nón cháy bỏng
của mặt trời, suốt ngày chúng ta lang thang,
mang trong lòng nỗi buồn ngàn năm chờ đợi
của những triết gia tỉnh lẻ.

Dòng sông đang cạn, giữa khi đứng dưới cầu,
chúng ta thẫn thờ trong im lặng cháy bỏng. Và chúng ta
cứ ở đấy tranh cãi và triết lý với nhau
về hệ thực vật và hệ động vật dưới lòng đại dương.



Tiếng kèn đêm[***]


Đời sống bắt chúng ta quay vòng dưới cái nóng thiêu đốt,
và còn nện chân chúng ta vào tảng đá nóng...
Thế nhưng khi đêm từ bầu trời rớt xuống,
tôi sẽ lấy kèn trompet và ra ngồi ở ngưỡng cửa.

Tôi đã nhiều lần thơ thẩn dọc theo những vách tường này
như âm thanh của một cái chuông vỡ.
Tôi phải thổi kèn. Tôi phải phá tan im lặng –
chỉ có tiếng thét mới cần được giữ lại.

Tôi muốn những ngọn gió nóng nổi thành sấm sét
và thổi tung mọi cánh cửa.
Tôi muốn đất một lần nữa lại theo
bước đi viễn chinh của loài dế.

Tôi muốn với bài ca của mình giật đứt hàng rào
kẽm gai chung quanh nhà bạn.
Tôi muốn người láng giềng của tôi vẫn tự coi là điếc,
nay có thể nghe thấy trở lại.

Tôi muốn tên cướp tự mình trói tay mình,
và người lính canh phải mua cho mình một trái tim.
Tôi muốn nhỏ ít giọt nước mắt của tôi
vào con mắt đang bị gỉ sét.

Tôi muốn ngày hội vui phải trở lại với chúng ta
và thổi tung hết bụi bặm.
Tôi muốn những người đang chết vì buồn nản,
giờ phải chết vì bị nhột và cười.

Tôi muốn chúng ta phải thức cầu kinh cho người chết,
và ngồi yên như vậy cho tới sáng.
Tôi muốn nói với hết những người đang ngủ rằng
ngủ cũng phải ngủ có giờ.

Tôi phải thổi kèn như thế cho tới tận đêm bít bùng
cho tới khi tôi có thể nghe vọng tới tôi
tiếng nói của cả ngàn kèn trompet xa xăm.
Hay của một vị tổng thiên thần vô hình nào đó.



Ký ức cuộc đời


Nằm dưới lòng đất và nhớ về cuộc đời –
những bữa ăn tối thịnh soạn và những đêm rỗi rãi trong vườn,
hay những Chủ nhật mùa đông khi nằm dài trên giường
anh ngao du mãi tận trang cuối một cuốn sách.

Nhớ lại sau khi anh chết, như thế nào những bà con thân thuộc,
vốn chẳng chuyện trò qua lại, nay gặp nhau và ngất lịm trong bếp,
như thế nào sau đó anh em đã đưa anh qua khắp đường phố
theo nhịp chậm của ban kèn đồng thành thị.

Nằm dưới lòng đất, và qua những nắm xương của mình,
như thế nào anh nghe nước chảy, nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc
là có được một người anh em họ xa đến giẫy cỏ
quanh mộ và nhỏ chút nước mắt cho anh.

Còn vợ anh, người anh từng điên cuồng tin cậy cho đến cùng,
cô ta đang mở cửa đón một người khác, thì con người vẫn thế,
và tiếng thì thầm từ căn phòng của anh giờ đây vọng đến tai anh –
không cách gì anh không lắng nghe hơi thở của hai người.

Tháng ngày vang ầm phía trên anh như những cái thùng rỗng,
nhưng người anh yêu lại thì thầm kêu tên anh những ngày Chủ nhật.
Rồi một chấm màu đỏ cam của vú nàng ôm quanh anh –
từ hai quả cam kia, cười cợt và tròn quay.


_________________________
[***]Bản Việt ngữ “Tiếng kèn đêm” được dịch cách nay đúng 17 năm trên đường đi từ Portland trở về Salt Lake City. Tập thơ The Wings of the Messenger là một trong những cuốn người dịch mua được vào một ngày cuối tuần ở Chợ Sách bày trên nền một công viên đẹp ở trung tâm thành phố này, không quá xa Nhà hát Portland Coliseum [nơi người Mỹ từng chào đón ban nhạc The Beatles: xem “Portland Coliseum” của Allen Ginsberg trên Tiền Vệ]. Người mua ở đây có thể thong thả vừa lục tìm sách đủ loại, vừa nhâm nhi một tách cà phê...



-----------------
“Nỗi buồn”, “Tiếng kèn đêm” và “Ký ức cuộc đời” dịch từ bản tiếng Anh “Sadness”, “Evening Trumpet” và “Memory of life” của Roland Flint và Lyubomir Nikolov trong Boris Xristov, The Wings of the Messenger (Sofia: Petrikov Publishers, 1991).



Source : Tiền Vệ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét