Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2010

Tuyển tập về Bùi Giáng - Phần 2

Tuyển tập về
Nhà Thơ Bùi Giáng
Hợp Lưu
---o0o---

Phần 2




Ði tu tâm niệm^

Bùi Giáng



Ði tu em nhớ một lời

Ðừng bao giờ trở lại đời làm giai nhân

Ðừng đẹp đẽ đến vô ngần

Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần tu (đi)




Thử phác họa đôi nét về cõi thơ Bùi Giáng^

HUỲNH HỮU ỦY


Một ngôi văn tinh kỳ dị, lạ lùng, quái đản vừa rụng trên bầu trời văn học. Chỉ cần nói như vậy thì có lẽ bất kỳ ai cũng biết ngay là thi sĩ Bùi Giáng vừa qua đời.

Trong vòng nửa thế kỷ vừa qua, chưa có nhà thơ nào tạo được một bóng dáng lồng lộng trên vòm trời thơ như Bùi Giáng. Ông làm được thơ, viết văn, bàn luận về văn học, triết học, chuyển dịch nhiều tác phẩm văn chương của thế giới sang Việt ngữ. Tất cả đều theo một thể điệu riêng biệt của ông. Văn nghiệp của Bùi Giáng vô cùng đồ sộ. Nội chuyện làm một bảng thư mục Bùi Giáng cũng đòi hỏi chúng ta mất nhiều thì giờ và công phu lắm, chứ chưa nói đến vấn đề gì khác.

Bùi Giáng có một sức đọc và viết vô cùng kinh khủng. Viết liên tu bất tận, ngưng viết thì đọc, ngưng đọc thì viết. Dịch sách Tây, sách Tàu, Ðức ngữ, Pháp ngữ. Cái lạ lùng vô cùng quí báo mà Bùi Giáng mang lại cho chúng ta chính là sự uyên bác, tài hoa, thâm trầm, bí ẩn của ông, tất cả đều nhào biến một cách vô cùng tự nhiên rồi hiện ra trong một vẻ giản dị tài tình của một tâm hồn và ngôn ngữ Việt. Trước bế tắc tư tưởng của Phương Tây cùng sự tràn lan của chủ nghĩa hư vô, ông đã trở về ngọn nguồn phương Ðông nhất thể, trở lại với cái hài hòa của đạo tự nhiên, đạo vũ trụ, mộc mạc, sơ nguyên, ẩn mật nơi tư tưởng vô cùng trầm trọng. Ông gom hết mọi chuyện lại rồi đưa đẩy tuôn trào thành một chuyển động tư tưởng bát ngát, một dòng thơ yêu kiều, thâm thúy.

Tư tưởng và chất thơ cổ kim đông tây tuôn chảy qua tâm hồn Bùi Giáng, biểu hiện thành một dòng thơ độc đáo và tuyệt vời nhất mực. Tinh thể thi ca di động qua một vài đỉnh núi chon von cô độc như Nguyễn Du, Holderlin, Heidegger, Nietzsche, càng bát ngát hơn khi chuyển động qua hồn thơ mênh mông của Bùi Giáng. Mỗi chữ, mỗi lời, từng câu từng tiếng đều là thơ. Lời nói thiệt với tinh thể ngôn ngữ là thơ, mà lời nói giỡn dưới chiếc áo dùng dằng của ngôn ngữ cũng là thơ. Ði, đứng, nằm, ngồi, cười khóc, vui đùa đều là thơ. Lúc không điên là thơ, mà lúc điên vẫn cứ là thơ. Ði cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống với nó trong từng mỗi giây mỗi phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ chỉ mới có Bùi Giáng là một.

Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, đường bay của thơ thực là kỳ diệu, mênh mông, vô lượng. Ông là chiếc bóng của Nguyễn Du, hay chính ông đã đẩy Nguyễn Du đến cùng thể tính của thi ca, làm lồng lộng, chất ngất một hồn thơ nước Việt.

Sống với thơ, giỡn chơi với ngôn ngữ để tạo nên thơ. Chữ nghĩa của Bùi Giáng lúc nào cũng có một điều gì đó rất dị thường. Ông chỉ cần sắp đặt những đề tựa tư mục lục một tập thơ của một tác giả khác thì đã mang lại cho chúng ta một bài thơ tuyệt đẹp. Nhưng sắp đặt và xô đẩy chữ nghĩa phải là theo cách của ông, chớ không thể của người nào khác được. Hay ông ngắt câu, ngắt đoạn từ bài thơ lục bát của một người làm thơ khác, biến đổi hình thức thành một bài thơ tự do, tức thời bài thơ ấy sẽ trở nên kỳ dị và đẹp đẽ lạ lùng. Rất nhiều người làm thơ đã biến đổi thể lục bát 6/8 thành 3/3/2/6, 4/2/6/2/ hay2/4/8, hay 6/4/4, hay còn biến đổi nhiều hơn nữa thành 1/2/3/2/2/2/2 thì có lẽ là đều bắt nguồn từ cách giỡn chơi của Bùi Giáng

Cuộc đời của Bùi Giáng và thơ của ông, ngay từ khởi đầu dường như đã có nhiều điều bất thường:

Lỡ từ lạc bước chân ra

Chết từ sơ ngộ màu hoa cuối cùng

Gần đây, thân nhân Bùi Giáng xuất bản tập thơ “Chớp Biển”, kỷ niệm Bùi Giáng vừa đúng 70 tuổi, giúp cho chúng ta nhiều dữ kiện để hiểu biết ông hơn. Hiểu một tác giả qua cuộc đời và hoàn toàn sống của tác giả ấy như phương pháp phê bình của Saint Beuve vẫn còn là một trong những cách thẩm thấu với văn chương rất thông tình đạt lý. Bà Bùi Giáng qua đời cách đây nửa thế kỷ, cảnh ly tan đó đã xô đẩy Bùi Giáng đến những đổ vỡ cùng cực. Bóng dáng người nữ ám ảnh ông suốt đời, để rồi từ đó ông sẽ nghiệm ra được một cách vô cùng sâu thẳm về tính nữ, về nguyên lý mẹ. Nói như Nguyễn Xuân Hoàng ai cũng cần một bà mẹ. Bà mẹ đó cũng có thể hiện ra trong một bóng dáng khác là người chị, cô em gái nhỏ hay chính là đứa con gái của mình. Tất cả cái thiêng liêng và tục lụy của mẫu người nữ đã biến hiện chập chùng qua hình ảnh người vợ, để rồi chuyển động nhiều hơn mà trở thành bà mẹ uyên nguyên của đất trời.

Nhiều lúc ông kể lễ nghiêm trang, đạo mạo, có lúc lại đùa giỡn, cười cợt với hình bóng các mẫu thân, tuy vẫn có pha đôi chút ngậm ngùi:

Mẹ về trong cõi người ta

Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng

Trần gian vui sướng lắm chăng

Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm bao.

Giữa những vần thơ điên của ông, dôi lúc chúng ta sẽ tìm thấy những câu thơ vô cùng kỳ diệu nói về bà mẹ thiêng liêng ấy, tất cả đều như rạo rực, sinh sôi, triển nở.

Một hôm nào em mở cửa đầu khe

Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ

Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả

Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá

Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ

Nhắc đến các hình ảnh mẫu thân của Bùi Giáng, tôi cũng muốn nhân đây chép thêm mấy câu thơ rất đẹp của ông về cô em gái nhỏ, mà đọc lên hẳn rằng chúng ta dễ liên tưởng ít nhiều đến người vợ cũ năm xưa đã chia lìa với ông quá sớm, khi họ cùng mới nhau bước chân vào đời. Dĩ nhiên, cô em gái nhỏ ấy cũng có thể là một trong những người nữ Bùi Giáng tiếp tục gặp về sau:

Em là em anh đợi khắp nẻo đường

Em có nụ cười buồn mây mọng

Em có là mi khép lá cây rung

Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng

Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng!

......

Em ở lại với đời ta em nhé

Em đừng đi cho ta nắm tay em

Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ

Vào trong mơ em mộng rất êm đềm

Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt

Ðể nhìn em qua khe hở du dương

Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt

Ồ thưa em ta thấy mộng không thường

Cái tang bà Bùi Giáng đóng đinh suốt đời ông. Rồi cùng lúc, ông gặp nhiều điều bất ưng ý giữa một thời đại mà bạo lực là phương tiện hàng đầu của con người.

Thời kháng chiến, ông đi chăn bò giữa những đồi sim ở một vùng đồi núi nào đó giữa miền Trung đất nước, để tự thấy mình là một thứ Tô Vũ của thời đại. Ông kết những vòng hoa dại đeo vào cổ bò, cổ dê, và đùa giỡn suốt ngày với đàn thú hiền từ. Cho mình là Tô Vũ, có lẽ đó cũng là một cách Bùi Giáng nói cho chúng ta biết ông là người bị lưu đày ngay chính nơi quê nhà của mình chứ không cần biệt xứ nơi đâu. Sau này, thỉnh thoảng ông cũng nhẹ nhàng vẽ lại cho chúng ta thấy đôi chút cảnh quan rùng rợn, tang thương của những ngày ấy:

Hãi hùng bi kịch đồi tranh

Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mù

Thây người nát ở phía sau

Nhìn thu khép mắt khổ đau khôn hàn

Rồi hòa bình được lập lại, nhưng Bùi Giáng không còn thể nào trở lại sống cuộc đời bình thường như chúng ta nữa, Những chấn động dữ dội của thời tuổi trẻ đã góp phần dồn đẩy ông tới bờ vực chon von. Ðịnh mệnh đã chọn ông là một thiên tài điên của dân tộc, đẩy ông bước theo Nguyễn Du, để ông kết bạn với Gerard de Nerval, Saint Exupéry, Khuất Nguyên, Tô Ðông Pha, Apollinaire, André Gide, Camus, René Char, để đôi khi nghiêm trang đàm đạo với Khổng Tử, Heracleitus, Parmenides, để sống cuộc đời quỉ khốc thần sầu cũa một cuồng sĩ ngoài chợ, và tuyệt vời nhất vẫn là để viết lại cho đất nước những dòng thơ kỳ diệu độc nhất vô nhị.

Cuộc đời Bùi Giáng và thơ Bùi Giáng chỉ còn chập chùng lên nhau giữa những giấc chiêm bao, phù du, mộng mị. Ông sống ở đời lúc tỉnh lúc điên: lúc tỉnh đã là chiêm bao nhưng lúc điên thì càng là chiêm bao quá cỡ. Trước năm 75, thỉnh thoảng ông mới lên cơn điên nhưng sau 75 cơn điên kéo dài lâu quá. Bà Irina, một phụ nữ người Nga có nhiều liên hệ mật thiết với Việt Nam, khi gặp Bùi Giáng, đã lặng lẽ tuôn chảy những dòng lệ nóng hổi cho một thiên tài mà bà nhìn thấy như hình bóng một Diogenes thời đại, cầm cây đuốc đi giữa ban ngày để tìm chân lý. Chân lý đã bị khuất lấp cả hai mươi thế kỷ rồi, chứ phải đâu chỉ là những ngày trước mắt. Vậy nên, nơi chiếc bàn viết lữ thứ, khi cầm bút viết lại để sống đời của một nhà văn lưu vong, Mai Thảo nhắc đến Bùi Giáng, phác thảo đôi nét về Bùi Giáng rất hay, sống động và tài tình, nhưng tôi cho là Mai Thảo rất nhầm lẫn khi qui tội điên của Bùi Giáng cho những nguyên nhân thời đại:

Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng

Tối tối về chùa đêm làm thơ

Ngày ca múa khóc cười giữa chợ

Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi

(Mai Thảo, Viết văn trở lại)

Hãy thử đọc lại vài câu thơ Của Bùi Giáng tự nói về mình. Ông gần như sống giữa một lớp sương mù dày đặïc của những giấc mộng chồng chất. Ông sống như một ông đạo, như một trích tiên, như ma quỉ, hay như một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ cùng cực:

Ði về với gió phù du

Mở trang mộng mị cho mù sa bay

Quê nhà chỉ còn là giấc mộng đã qua, thân thế cũng chỉ là một nỗi đời hư huyễn:

Hỏi tên, rằng biển xanh đâu

Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên, rằng một hai ba

Ðếm là diệu tưởng, đo là nghị tâm!

Ông đã tự hỏi tự đáp về tên tuổi và quê hương thực của mình:

Hỏi tên? – Cổ lục phong trần

Hỏi quê? – Mộng tưởng tiền trình bơ vơ

Ông luôn lập đi lập lại ý tưởng ấy khi có dịp:

Hỗn mang về giữa hiên nhà

Bây giờ cố quận tên là chiêm bao

Cái thế giới chiêm bao mộng mị ấy, có lúc ông chợp bắt được thành những câu thơ rất đẹp:

Ta gọi chiêm bao về mộng mị

Chắp ân tình cho nghĩa rộng tinh sương

Về tuế nguyệt bước ngao du tận mỵ

Người có nghe tang hải réo vô thường?

Sống và mơ giữa thế giới đó, ông vác cần đi câu cá hư vô ngoài biển đông:

Tôi làm Nam hải Ðiếu đồ

Ngồi câu con cá hư vô giữa trời

Ông yêu mến, quí trọng từng đốm nhỏ li ti của trời đất và sự sống, từng cây cỏ dại, từng cánh bướm, cánh chuồn chuồn:

Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi

Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn

Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại

Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.

Khi tỉnh táo mà viết được Tôi nói điệu điên rồ / Ấy là vui vậy thì quả là ông đã thoát ra khỏi mọi phiền trược của cuộc đời, chẳng còn câu chấp chi cả, ông sống hoang hỉ như một đứa trẻ với một nguồn thơ tinh khôi, hồn nhiên, đầy hoan lạc.

Ðọc thơ Bùi Giáng để cảm cái tình và ý của nó, để sống cái thâm diệu của tư tưởng đã hé mở và như luôn hứa hẹn một cõi mênh mông bát ngát dị thường sau đó. Ðọc thơ ông cũng là để thưởng thức chữ dùng cực kỳ tài tình của ông. Có những chữ rất thông tục, tầm thường, nhiều khi chúng ta không muốn sử dụng vì không được nhã, nghe hơi nặng tai. Vậy mà khi những chữ ấy rớt vào tai họ Bùi, không cần tỉa gọt, trau chuốt gì cả, chỉ xô đẩy tự nhiên như hít vào thở ra, thì nó sẽ trở thành thơ. Hãy đọc thử bốn câu thơ sau, chúng ta sẽ thấy ngay cái tài hoa lạ lùng của Bùi giáng khi biến đổi một chữ tầm thường thành chữ của thơ như thế nào. Ông phả vào những cái tài hoa ẩn mật của hồn thơ để mang lại cho nó một sức mạnh vô cùng ký bí :

Người con gái lội qua khe

Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau

Nỗi niềm tưởng lại xưa sâu

Bàn chân với nước cùng nhau lại đè

Chữ khe, rồi lại chữ đè thực là đắc địa. Dùng chữ đến như vậy thì không còn là viết văn, làm thơ nữa, mà đã là thợ trời của chữ. Ngay khi ông lên cơn điên, nhưng chưa điên quá độ, mà mới chỉ trôi nổi giữa những cơn điên nhẹ, ông cũng mang lại cho chúng ta những câu vần vè quàng xiên rất vui vẻ. Nhớ lại những ngày đi chăn bò chăn dê giữa núi rừng, thời trai trẻ, rồi liên kết với việc làm thơ và một số hình ảnh khác, tức thời những hình ảnh và các con chữ sẽ xô đẩy nhau. Ông viết mấy dòng sau, như một bức tranh của trẻ con vẽ, không đầu không đuôi, không luật tắc, thấy và thích thì cứ quẹt bừa, cứ bôi bác bừa những vệt màu và đường nét, vậy mà sẽ mang lại cho người xem nhiều điều lý thú.

Làm thơ như thể chăn trâu

Chăn bò, chăn ngựa, ngõ hầu chăn dê

Chăn hùm thiên mệt chán chê,

Chăn beo, chăn gấu, nghiệp nghề chăn voi.

Ði vào cõi thơ Bùi Giáng, bên những cơn điên dài của ông, giữa những cơn chiêm bao mộng mị, đôi lúc thấy ông điên vậy mà nhìn kỷ lại thì ông chẳng điên chút nào. Vậy nên, có nhiều người cho là Bùi Giáng không điên, như Viên Linh cho rằng ông chỉ chọn một thái độ sống như vậy mà thôi. Trước thế giới Bùi Giáng, chúng ta như đứng nơi một ngã ba đường, hay những lối mòn trong rừng thẩm mà cần phải chọn một hướng đi, mỗi người phải tự định hướng cho riêng mình.

Riêng tôi, lúc nào tôi cũng thấy Bùi Giáng là một thiên tài điên. Ðiên nhưng rất hiền hòa, rất thơ mộng, điên như thánh. Giữa những cơn điên kéo dài lâu quá, ông như không còn phân biệt cái thực và hư. Có một bữa, ông đòi tôi chở về một căn nhà nào đó bên miệt Phú Nhuận để ông cho vịt ăn, vì nhiều ngày quá rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói lắm. Trên căn gác tôi đưa ông về, ông rào một chuồn vịt khoảng mấy thước vuông, ông ném gạo cho vịt ăn, nói nói cười cười, rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ toàn là một bày vịt bằng nhựa. Trước năm 75, tôi gặp ông rất thường vì mỗi buổi chiều rảnh rỗi tôi thường ghé Ðại học Vạn Hạnh viếng thăm thầy Tuệ Sĩ rồi cũng tạt qua thăm ông. Lúc nào cũng thấy ông làm việc. Nằm ở một góc nhà, chung quanh đẩy sách vở, đọc đọc chép chép không ngừng nghỉ. Ngoài những cơn cuồng, Bùi Giáng rất lặng lẽ, ghét chuyện thị phi, tranh chấp ô trọc. Tôi còn nhớ khoảng năm 1971, tuần báo tìm hiểu của cô Phan Lâm Hương (con gái út cụ Phan Huy Quát) có thực hiện một cuộc nói chuyện với Bùi Giáng rất hay và nghiêm trang, có thể giúp cho người đọc chia sẽ được nhiều điều với Bùi Giáng. Nhưng sau đó thì có vấn đề, vì bài báo ấy mà một thi sỉ khác, cũng là loại cô phong đỉnh của vòm thơ Việt hiện đại gây hấn với Bùi Giáng quá cỡ. Bùi Giáng sau đó rất sợ mấy nhà báo. Ông than phiền hoài, cho rằng mấy ông làm báo đã kéo Bùi Giáng vào việc thi phi ở đời, từ đó ông không còn muốn gặp mấy người ký giả, viết báo thường thích gây chuyện chộn rộn ở đời.

Bùi Giáng tránh né việc thi phi, và ông rất ghét bạo lực, bạo động, bạo quyền. Hơn 25 năm trước, tôi thấy ông nuôi một đàn chó nhỏ, đi đâu cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường, có lúc ông cho luôn hết vào bao bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất ngư, ngộp thở, chỉ còn kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà bà Bé Ký cả tuần lễ làm Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là chúng sủa vang nhà không ai chịu nổi. Ðàn chó này, mỗi con đều có tên, và tôi rất kinh hoàng thấy ông gọi con chó xấu xí, nhếch nhát nhất trong đám bằng tên nhân vật số 1của lịch sử hiện đại. Và sau năm 75, chẳng lạ gì khi mà cứ những chổ đông người, chợ búa xô bồ, cuồng sĩ họ Bùi thường đứng diễn thuyết, hùng hồn kể tội cụ HCM mà dàn cầm quyền chóp đỉnh hiện nay.

Tôi cũng còn nhớ, có lần nói chuyện với ông, tôi mới chỉ lỡ lời nhắc đến các nhà nho cách mạng đất Quảng, hai cụ Phan Tây Hồ, Huỳnh Thúc Kháng, thì ông rất tức giận, rồi lên cơn điên ngay, chộp lấy cổ áo tôi, gần như muốn xô tôi xuống từ lầu ba trường Vạn Hạnh.

Qua mấy câu chuyện nhỏ này, tôi cảm thấy rằng, Bùi Giáng chỉ muốn sống với mọi người trong một thế giới thái hòa, an lạc. Ðua tranh rồi bạo động chỉ là mầm mống của phân ly, mất quân bình và rối loạn. Ông yêu thích cuộc sống lặng lẽ tự nhiên, như một đôi lần tôi thấy ông len lén chào mấy người đệ tử của ông Ðạo Dừøa với một vẻ hỉ hoan bất tận bộc lộ ra trên khuôn mặt. Ông chào rất kính cẩn mấy ông đạo này, những người đã tự phát nguyện tịnh khẩu vài ba năm, có người quyết tịnh khẩu cho đến khi nào hỏa bình được lập lại mới sẽ mở miệng, cất tiếng với đời.

Bên trên là vài giai thoại về Bùi Giáng bởi vì đề cập đến Bùi Giáng mà không nhắc qua các giai thoại dính dáng đến ông thì quả là thiếu sót. Mới đây, trên việc báo kinh tế số ngày 17 tháng 10 năm 1998, ông La Toàn Vinh, cựu sinh viên trường Mỹ Thuật Gia Ðịnh nhắc lại vài hình ảnh Bùi Giáng mà ông bắt gặp ở Sái Gòn trước đây, đọc rất vui. Ðọc đến chổ Xuân Diệu diễn thuyết trong khuôn viên trường Mỹ Thuật, ông đi tới đi lui ngoài cổng trường và chửi đổng “Mẹ mày Xuân Diệu...Mẹ mày Xuân Diệu”, tôi đã phải cười phì và nhớ ngay đến dáng đi điệu nói, tiếng cười của ông.

Có thể không cần đọc Bùi Giáng, mà chỉ cần nghe những giai thoại về ông thì cũng là đủ để sống được chất thơ và đời thơ của Bùi Giáng. Những giai thoại như thế, nếu cất công đi ghi chép lại nơi bạn hữu, thân nhân của Bùi Giáng và trên khắp đường phố Sài Gòn thì có lẽ chúng ta sẽ có cả một quyển sách dày như tự điển, góp phần phong phú đời sống văn học đất nước trước mắt và cho cả mai sau.

Chúng ta vừa đi qua một vài nơi giữa khu vườn bát ngát mênh mông của cõi thơ Bùi Giáng. Khi viết bài này, chúng tôi rất tiếc là không có trong tay tài liệu gì về Bùi Giáng, chỉ đành nhặt nhạnh mấy câu thơ nới các bài báo gần đây, tuy nhiên cũng hy vọng là đã vẽ phác được đôi nét về ông, làm sống lại đôi chút hình ảnh một thiên tài của dân tộc.

Bùi Giáng là thiên tài nhưng là một nhà thơ điên, vì vậy ông viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng cũng chẳng hề gì, mấy ngàn trang sách của ông chỉ cần lọc lại thành một tập thơ nhỏ, rồi với tập thơ ấy chỉ cần tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng mươi bài, thì với mươi bài thơ ấy ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của thời hiện đại, một vì sao lấp lánh rạng rỡ mãi hoài trên vòm trời thơ của dân tộc Việt

Viết xong ở gác nhỏ đường Hồ Tây,

Thành phố Vườn, ngày 19.10.1998

HUỲNH HỮU ỦY

Tái bút: Bài viết trên đây đã gởi đi để kịp chuẩn bị sắp chữ và lên khuôn trong số báo tới vì tình cờ tôi vừa tìm lại được tờ Tạp Chí thơ số ra mắt vào mùa xuân 1994 có in một bài viết rất hay của Thanh Tâm Tuyền về Bùi Giáng cùng với hai bài thơ của Bùi Giáng. Tôi chẳng thể nào không viết thêm mấy giòng tái bút này, dù biết có làm phiền hà tòa soạn trong việc sắp xếp lại trang báo trước khi đưa đi in, để trích lại ở đây một đoạn văn của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã trích dẫn cùng một bài thơ của Bùi Giáng mà Tạp Chí thơ đã chọn để in lại.

Ðây là bài thơ Bao Giờ của Bùi Giáng:

Bằng bút chì đen

Tôi chép bài thơ

Trên tường vôi trắng



Bằng bút chì trắng

Tôi chép bài thơ

Trên lá lục hồng



Bằng cục than hồng

Tôi đốt bài thơ

Từng giờ từng phút



Tôi cười tôi khóc bâng quơ

Người nghe cười khóc có ngờ chi không

Quả là một bài thơ tuyệt đẹp với những hình ảnh tự động xô đẩy đuổi bắt nhau. Những hình ảnh chuyển động trên một đường biên của hữu thức và vô thức. Ảnh tượng và sắc màu rất cụ thể mà rõ ràng là vô thực và đầy mộng mị. Tất cả là để dẫn đến một dấu hỏi về cuộc đời và ý nghĩa nhân sinh, đầy khúc mắc và nhẹ nhàng, tế nhị, và vô cùng bao dung. Có thể nói đó là một bài thơ siêu thực hiện đại mà vẫn chứa chấp một cái hồn cổ kính thơ mộng.

Và đây là mấy ý kiến về thơ của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã dẫn:

“Thơ là một cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn thì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phác động một trận mưa rào, một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.

Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ chứ không điên rồ mà bàn luận về thơ. Người đời nay trái lại. Họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luận lý không được “bốc đồng”, vịnh lăng nhăng cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy”.

Thơ tôi làm chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vay áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên cánh bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng một vong hồn bát ngát, rồi quay về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu.

... Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vẫn bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao”

Có lẽ chưa từng có ai bàn về thơ với giọng điệu dị thường như vậy. Ông mở ra một cõi mênh mông, thăm thẳm, mà mời gọi ngưòi ta bước vào. Và tôi hết sức đồng ý cũng như thích thú với mấy lời của Thanh Tâm Tuyền:

“Ðừng có nghĩ, hãy buông mặc theo ông, như ông đã từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn nhắc nhở nơi ông là những bóng vang ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông”.

Xin cảm ơn thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, chỉ với bài viết “Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn” rất ngắn của ông, đã soi sáng cho tôi nhiều điều về cái sâu thẳm không cùng của nhà thơ Bùi Giáng. Vậy thì, hãy bước vào cõi thơ Bùi Giáng bằng cách trút bỏ tất cả hệ lụy, vứt bỏ những phân tích phê bình, lý luận để mà hít thở và mơ mộng cùng ông, để phiêu bồng cùng ông qua những chân trời không cùng của thơ.





Bùi Giáng: Một vùng đất hẹp và một thế giới ^

NGUYỄN HOÀNG VÂN





Nhớ lại cái lần ngược dòng sông Thu năm ấy. Cái lần lạc về đầu rú khe truông mà lòng cứ vẩn vơ mơ về những thị thành thấp thoáng trời xa. Thuyền qua Trung Phước; một bên là Đại Bình với những vườn cam đỏ ối, một bên là chợ que một sớm mai náo nhiệt. Rồi núi Cà Tang sừng sững trước mặt. Dòng sông đã xanh mà hai bờ cũng xanh. Xanh với những bãi ngô, dâu và những rặng tre già lặng lẽ soi mình. Thuyền ngược nữa, ngược nữa. Mỏ than Nông Sơn thấp thoáng bờ xa với những mái ngói nhấp nhô sườn đồi, chói chang dưới ánh tà huy. Và cậu thanh niên mới lớn nhưng lắm mơ mộng phải nhíu mày để hình dung cho ra những phố xá kinh kỳ dọc theo Danube đôi bờ, con sông xanh mơ mộng với những điệu luân vũ rập rờn sóng nước mây chiều…

Rồi cái đêm hôm ấy, cùng người bà con trên chiếc ghe neo dọc triền sông. Ngược lên phía trên, về phía Mưa Nguồn, là Dùi Chiêng, Trà Linh, là Hòn Kẽm, Đá Dừng; những cái tên đã đi vào ca dao: Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng/ Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi. Không gian trầm lại, thoang thoảng mùi rượu nếp chua chua. Tiếng cá quẩy nước. Làn gió vi vu trên những giọt trăng lấp loáng đùa sóng. Khung cảnh êm đềm quá, êm đềm như thể lạc lối thiên thai. Nhưng lòng Lưu Nguyễn vẫn còn vướng nợ trần, không chút tha thiết với cảnh trăng nước bồng lai, cứ mơ tưởng về phía ánh sáng kinh kỳ chốn trời xa; những đại lộ tân kỳ náo nhiệt hay những mái ngói rêu phong già hằng thế kỷ, những tháp chuông cổ kính dọc theo hai bờ con sông xanh chảy qua bảy nước…

Đã mười mấy năm rồi kể từ ngày ấy. Cái ngày mà mái đầu hãy còn xanh ngắt với tâm hồn luôn ấp ủ giấc mơ về đôi cánh bay lên và những phương trời thật xa… Nhưng lúc đó, và cả trước đó cũng như bao nhiêu năm sau đó nữa, có một đôi mắt hun hút chiều sâu, một tâm hồn si dại những hoài niệm luôn hướng về về mãnh đất có con sông mang tên Thu Bồn chảy qua ấy. Thân xác đã phiêu bạt ở một góc trời cách xa. Tâm thức còn phiêu bồng xa hơn nữa. Người ấy đã cùng cậu hoàng con của Exupéry la đà bay qua những tinh tú chi chít trên giải ngân hà. Đã chấp cánh sang tận vòm trời tư tưởng Aâu Châu để băn khoăn cùng những Hiedegger, Holdeline hay Camus v. v…Trong cõi thơ, người ấy đã lui về hai trăm năm trước để thổn thức cùng Tố Như, đã lấn bước về phía trước, vượt lên những bước chân của thời đại khi giờ đây người ta cố công đào xới với những cái nhìn vượt qua khuôn khổ của ý thức hiện đại.

Người đó là Bùi Giáng. Con người với đôi mắt và nguyên khối tâm hồn đăm đăm về nơi đầu rú khe truông; nơi dêm nào cậu trai mới lớn cảm thấy tù túng mà mơ tưởng về những chân trời góc bể xa xăm:

Những trận nào Trà Linh qua Đá Dừng Hòn Dựng

Dùi Chiên về Phường Rạnh ngược Khe Rinh

Bao lần anh cùng chúng em lận đận

Bôn ba băng rú rậm luống rùng mình

Những bận nào Quế Sơn Rù Rì con suối ngược

Nước trôi nguồn nước lũ cuốn phăng phăng

Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt

Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng

(Nỗi Lòng Tô Vũ)

Mảnh đất đó gắn chặt với Bùi Giáng đến nỗi nửa thế kỷ Sài Gòn không hề làm loãng đi chất giọng Quảng Nam Doáng bô nhiêu tuổi Doáng già. Nơi một Doáng trẻ đã từ giã và một Doáng già đau đáu nhớ nhung:

Nhắm mắt mơ màng thấy viễn vông

Thấy tình rộng biển nghĩa dài sông

Vu vơ khắp ngã nghe chim hót

Ca khúc phì nhiêu đất ruộng đồng

(Nhắm mắt)

Đó, mảnh đất của tình biển nghĩa sông mà nhà thơ đã:

Non nửa thế kỷ xa quê

Mà chưa có dịp về quê một lần

Bảy mươi mốt tuổi tần ngần

Nước non Nam Việt chiếm gần trọn tim

Về Trung biết chốn nào tìm

Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?

Giật mình lúc chợt nghĩ ra

Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi…

(Tâm Sự)

Non nửa thế kỷ với biết bao là phù du dâu bể, biết bao là tử biệt sinh ly? Nhưng quê nhà vẫn đợi đứa con lưu lạc Sài Gòn quyến rũ tôi chưa chịu về:

Gió trăng sông núi đợi ta

Chờ sương nhị nguyệt màu hoa dâng mùa

Một mình vào núi đợi mưa

ĐợÏi nghe chớp biển xế trưa mưa nguồn

Phồn hoa co nhớ đèo truông?

………

(Nhớ Mông Lung)

Đèo truông vẫn có đó, trong lòng người phồn hoa. Và cả gió trăng, gió trăng vẫn đợi; nhưng người đi cứ mãi chần chờ:

… Trút đi bất tuyệt triền miên cõi bờ

Thị thành tiên cổ thành thơ

Thôn làng thiên lý chần chờ chiều hôm

Một hôm bất chợt một lần

Rụng rời ký ức bậc tần rong rêu

(Rong Rêu)

Chần chờ bởi cứ mãi nâng niu niềm vui hạnh ngộ, như thế nâng niu như một thứ gì quý giá. Bởi sợ nó sẽ tan biến, sẽ mất đi:

- Ủa! Anh Sáu Giáng! Anh về lúc nào?

- Mới vừa về một phút

- Ở Sài Gòn về chơi, anh đi bằng phương tiện gì? Xe đò? Tàu Bay?

- Anh đi bộ. Đi bằng hai chân

- Đi trong bao lâu mới tới?

- Ròng rã suốt hai tháng trời

………………….

- Sao anh không đi xe đò cho chóng tới nơi?

-Anh muốn tư từ thong thả. Vừa đi vừa ngắm phong cảnh

dọc đường. Và cũng cố ý kéo dài để dành?

- Để dành cái chi?

- Để dành cuộc gặp gỡ sau nhiều năm xa nhau. Đừng gặp vội…

(Thôn Nữ – Chuyện chiêm bao)

Và thế, ngày về Bùi Giáng cũng chỉ là những hẹn hò, những đính ước cùng biển nước mây trời:

Ngày nào có nắng gió mưa

Anh về trở lại làng xưa tỉnh nhà

Gặp em như mới hôm qua…

(Anh Sẽ Về Thăm)

Bao giờ mới có nắng mưa? Khác nào Hồ Dzếnh với những hẹn hò lần lữa “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé?” Khác nào khúc nhãc dạo cho bản romance một đời người mà những tiểu thư đài các ngồi mơ màng chờ đợi bên cửa sổ? Cái ngày về để dành lần lữa ấy cũng chờn vờn và siêu thực khác nào mộng mị chiêm bao? Khác chăng, là đoạn prelude mở đầu cho khúc romance một đời người của các tiểu thư bao giờ cũng ướt đẫm những hương hoa và loạt soạt những xiêm váy lụa là; với Bùi Giáng, giấc chiêm bao ấy trở nên cụ thể, mộc mạc và chân tình. Mộc mạc và chân tình như chính những đứa con của mảnh đất Quảng Nam:

Đi về làng xóm năm xưa

Viếng thăm quê cũ người chưa quên người

Người hỏi tôi: Từ đâu ông đến đây?

- Thưa cô thôn nữ từ đây tôi về

- Ủa phải anh Sáu Giáng đó không?

- Và cô có phải là cô Bông năm nào?

- Anh còn nhớ rõ ôi chao!

Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh

Anh điên mà dzui-dzẻ thập thành

Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu.

(Đi về làng xóm)

Trong Bùi Giáng, quê nhà vẫn còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn như ngày mới cất bước ra đi cho dù bể đời phù du đã đầy vơi mấy chặng. Nguyên vẹn như tấm lòng của vợ chồng cô Bông “cũng lúc nào nhớ anh”. Nguyên vẹn với những địa danh gắn chặt với tình yêu ban đầu:

Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên

Xiết bao tình nghĩa thần tiên mộng đầu

Vĩnh trinh Lệ Trạch Thanh Châu

Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người

Người đầu tiên đã mỉm cười

Nhìn tôi tưởng thấy niêm vui vô cùng…

(Ký Ức)

Vọng về nẻo quê xưa, ấy cũng là vọng về cái thời trẻ dại đã đánh mất:

Xuân xanh về khóc giữa giòng

Tuổi già quá cỡ, tấm lòng quá vui

Chần chờ tôi bước thụt lùi

Tới bao giờ gặp lại thằng tuổi thơ…

(Bé già nua khóc)

Và quê hương đâu chỉ có hình ảnh bến nước cây đa hay tuổi thơ đánh mất? Quê hương còn gợi nhớ cái thuở ban đầu lưu luyến. Một Bùi Giáng thanh niên hay một Bùi Giáng trung niên có thể cười cợt hoang tàn với một Bardot chênh vênh đồi núi, một Monroe ẩn khuất khe mương. Nhưng ở chốn sâu thẳm nhất của tâm hồn đó hẳn phải là hình ảnh người thôn nữ… Chết bên bờ lúa/ Để lại một dấu mòn/ Một dấu chân bước của/ Một bàn chân bé con. Cái chết của người vợ trẻ hẳn đã để lại một vết hằn không thể nào xóa nhòa để rồi ở một Bùi Giáng lão niên, những ký ức dồn nén từ trong sâu thẳm tâm hồn ấy có dịp thăng hoa. Thăng hoa thành những day dứt triền miên bất tận trong lứa tuổi xế chiều (1).

Mỗi giây phút mỗi bất ngờ

Mỗi đêm tưởng tượng thẹn thò cùng em

Tình em bao xiết êm đềm

Tình tôi như thể chênh vênh lạ thường…

(Thôn Nữ)

Đó, là người thôn nữ yểu mệnh đã đi thiêm thiếp trong cõi sa mù. Đi biền biệt. Gặp lại chăng, chỉ là những thoáng chiêm bao “suốt cứ sơn khuê lâm tuyền”. Nhưng khác nào những mộng mị “trông vời quê cũ”, hình ảnh hư ảo dồn nén trong ký ức ấy cũng là những gì dể vỡ, dễ đánh mất:

Bất ngờ gặp lại người quen

Từ muôn năm đã từng quen biết rồi

Giật mình tỉnh giấc than ôi

Trùng phùng trong mộng muôn đời tiếc thương…

(Chiêm Bao)

Khi đã đánh mất, khi đã tình giấc than ôi; còn biết làm gì hơn? Thôi thì lặng lẽ một mình:

…Nàng đi vô tận thời gian

Nàng đi mất hút cuối miền thời gian

Tôi ngồi khóc lóc hoang mang

Một mình cô độc muôn ngàn tương tư…

(Một nàng tiên)

Nếu đã chắt chiu dành dụm ngày về đến cả nửa thế kỷ thì cái cảnh tử biệt sinh ly lúc tuổi chỉ mới chớm đôi mươi ấy còn gắn chặt vào tâm hồn kia si dại kia đến là nhường nào? Năm mươi năm trời đằng đẳng với bao nhiêu chuyện chớp biển mưa nguồn, bao cảnh phù du dâu bể; nhà thơ vẫn lẽo đẽo bên mình một hình bóng. Aâm thầm. Lặng lẽ. Và chung thủy:

Gặp em từ ấy tới giờ

Năm mươi năm chẳn như tờ lặng yên

Biết bao dâu biển nổi chìm

Đôi lần con mắt lim dim nhớ gì



Bảy mươi tuổi quá nặng nề

Còn em đã sáu tám rồi em ơi

Ngày mai vĩnh biệt cõi đời

Trùng lai có lẽ cuối trời biệt ly

(Tặng Gái Quê)

Như thế, giờ đây Bùi Giáng hẳn đã thực sự ra đi để trùng lai trong cảnh cuối trời sinh ly. Còn sống, người ta đã nói nhiều về ông. Ra đi, người ta càng nói nhiều hơn nữa. Người ta thi nhau vẽ những giai thoại mà không ai có thể đoan chắc tính chất xác thực. Họ thi nhau kể những kỷ niệm gặp gỡ. Chỉ có một số ít e dè về cách cảm thụ thơ Bùi Giáng. Và ít hơn nữa với những người ra công khai phá để tìm kiếm từ khối ngôn-ngữ-thơ Bùi Giáng những hạt kim cương lóe nên ánh mới.

Dẫu vậy, Bùi Giáng mà chúng ta được biết, dầu còn mơ hồ, đâu chỉ là một chú hoàng con la đà trên những tinh tú? Đâu chỉ là một tâm hồn vượt qua những biên giới quốc gia? Tâm hồn ấy, khối tri thức ấy còn bước hẳn lên trên những nhịp chân thời gian so với cùng thế hệ.

Tôi nhớ lại những tranh cãi văn chương mới đây, những tranh cãi xoay quanh gốc và thế giới. Cái thiếu và cái thừa. Những tranh cãi mà người ta cứ vô tình lẫn lộn thế giới và phong cách thế giới. Như thể thế giới luôn luôn ngụ ý đoạn tuyệt và vong bản. Nhưng một Bùi Giáng lang thang trên vỉa hè Sài Gòn, đau đáu những nhớ nhung về mảnh đất hẹp Quảng Nam mà vẫn có thể đem triết học Đông Tây về với ca dao lục bát; vẫn có thể quàng vào thân thể của Bardot hay Monroe những xiêm y của Xuân Hương; vẫn thản nhiên đưa thơ vượt qua những rào cản của thú ngôn ngữ mà chưa một quy phạm chuẩn mực nào hình thành là gì? Người đó chẳng đã đường đường tự tại một phong cách rất là thế giới nhưng vẫn không xa rời gốc đó ư? Với mảnh đất chật hẹp cuối cùng quê ấy, Bùi Giáng có cả một vũ trụ dệt nên từ những hoài niệm về thuở ban đầu. Trong một thế giới rộng lớn để thả hồn rong chơi, Bùi Giáng có một mảnh đất đầy kỷ niệm gắn bó để chiêm bao mộng mị.

Và nhớ về cái đêm trăng sông nước bồng lai trên thượng nguồn của dòng sông Thu năm ấy, dòng sông chảy qua, mảnh đất trong chiêm bao mộng mị của Bùi Giáng; tôi cứ hình dung và nhớ thơ trong phút giây Trùng lai có lẽ cuối cùng biệt ly với người thôn nữ độ nào. Mà không hẳn chỉ là mảnh đất ấy. Nhà thơ sẽ nắm tay cô thôn nữ năm xưa, thung thăêng rong chơi cùng những Hiedegger, Holderlin, Exupéry…La đà bay qua những tháp chuông cổ kính rêu phong hai bên dòng sông Danube hay những vì sao rực rỡ trên dải Ngân Hà:

Mai sau còn dự hội nào

Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông…

Chắc là vậy…

Melbourne 6.11.98

NGUYỄN HOÀNG VÂN



(1) Riêng tập Đêm ngắm trăng do NXB Trẻ phát hành tại Sài Gòn, bao gồm 227 bài thơ mới nhất của ông trong đêm 1997, đã có đến 9 bài thơ thực cảm động với tựa đề Thôn Nữ; chưa kể những bài thơ khác tựa đề nhưng cùng phảng phất một hình bóng.




Thân tình gửi anh Bùi Giáng^
HUY CẬN

Đôi lời thăm bạn thơ

Thăm tấm lòng tri kỷ

Bao giờ đến bây giờ

Tình thơ không hoen rỉ









Ở chùa^


NGÔ CANG



(Kính gởi Đại lão thi sĩ Bùi Giáng)



Con về mượn áo chùa quê

Kính thưa Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma

Ngồi thiền suốt chín năm qua

Cứ đêm tâm tỉnh, sáng ra… động lòng



Cỏ lau thầy vượt biển Đông

Con bơi bơi mãi vẫn không thấu bờ

Gạo tiền cơm áo vật vờ

Thưa thầy, nghỉ, đã tới giờ thọ trai



Ngước lên mắt sáng Phật đài

Xem trong thiên hạ chẳng ai giống mình

Thõng tay vào túi u minh

Con tiêu đến hết đồng chinh cuối cùng



Giấc mơ hóa cội cây tùng

Mở ra công án một vùng cỏ hoa

Con về mượn áo thiền gia

Kính thưa Sư Tổ Đạt Ma Bồ Đề









Bùi Giáng Bốn Mùa^



PHẠM THIÊN THƯ





Ta thấy anh là – con dế điên

Cả mùa xuân – hát giữa thanh thiên

Mùa xuân hoa cỏ vương đầy sách

Anh ném thơ ca – xuống võng thiền



Ta thấy anh là – con dế què

Suốt mùa hạ thẫm – hát im nghe

Anh chưa nhảy khỏi bờ nhân ngã

Lại ném tồn sinh tím vỉa hè.



Ta thấy anh – là dế sương mù

Hát ca ẩm ỉ suốt mùa Thu

Anh mơ hồ cả đêm xòe nguyệt

Vàng cả Kim Cương mở lối tu.



Ta thấy anh là dế nội đồng

Lẫn vào hương cỏ hát mùa Đông

Anh sai ngôn ngữ như phù thủy

Ngôn ngữ đè anh xuống cõi không



Ta với anh – cùng Dế Đá trời

Thượng đế cầm râu ngoáy ngoáy chơi

Chọi với hư vô đầu trụi tóc

Tìm trong đá tảng – cái chơi vơi





Trích “Sổ tang” ^



LTS: Những trang sau đây được trích từ Sổ Tang viết bởi văn thi hữu, nghệ sĩ các ngành, đại diện cơ sở báo chí, tôn giáo và quần chúng ái mộ đến vĩnh biệt thi sĩ Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn)



Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giáng

Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không

Lỗ không trời đất ngỡ ngàng

Hóa ra thi thể là ngàn hư vô



Nhớ thương vô cùng là từ

Là từ vô tận ứ ừ viễn vông



TRỊNH CÔNG SƠN/ 1998





Hành trình của hạt cát

Tặng Bùi Giáng





Ban sơ là hạt cát vùi

Dưới lòng biển cả muôn đời ngủ yên



Rồi một hôm bỗng trồi lên

Bay bay bay mãi tới miền Bộ châu



Thõng tay đánh cuộc bể dâu

Hòa tan thành lệ nhỏ vào thiên thu

Chảy qua sa mạc thâm u

Qua vùng gió xoáy mịt mù tử sinh

Xác trai hồn khách biên đình

Hóa thân làm gã ăn xin cõi đời

Ngàn năm say ngủ bên đời

Coi như chưa đã một thời viễn du



Báo GIÁC NGỘ số 181



Tạm Biệt Bùi Giáng



Ra đi từ vô thỉ

Điểm hẹn là vô chung

Ôi! Mệt nhoài cuộc lữ

Này đây, phút tạm dừng



BÍCH NHÃN HỒ

Chùa Vĩnh Nghiêm 09.10.1998



Bạn từ trên ấy xuống đây

Bay theo có một nét mây ngang trời

Nay về nắng chẳng còn tươi

Người đi kim cổ sáng hoài dáng ai



NGŨ HÀ MIÊN

NGUYỄN VĂN HÀM



Ngõ ban sơ hạnh ngân dài

Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua

B.G





Tôi nghĩ cái hình ảnh bầm dập của trang tài tử đời nay là anh, quả thật khiến người ta phải cẩn thận coi lại công lực của mình trước khi quyết định dan díu với Cái Đẹp.



Thành kính tưởng niệm LÊ NGUYÊN ĐẠI





Bái biệt Bùi Giàng Giáng tiên sinh ^

Tôi nghe danh rồi quen biết Bùi Giáng tiên sinh từ những năm tôi còn ngồi trên ghế nhà trường. Lúc bấy giờ ông đã rền tiếng trên thi đàn nửa nước Việt.

Về con người văn nghệ Bùi tiên sinh, ai đã hơn một lần đọc thơ ông ắt biết về “thi sĩ trung niên” kiêm họa sĩ chuyên vẽ tranh, làm thơ tặng những nàng thiếu nữ bên bờ cỏ Phi châu và châu chấu, chuồn chuồn… này.

Bẵng đi một thời gian dài với bao hưng phế. Rồi những năm 80 tôi gặp lại “trung niên thi sĩ” – bây giờ là lão thành thi nhân – dưới mái chùa Già Lam cạnh Xóm Gà, Gia Định, nơi thi sĩ đang ẩn am. Trong lần tái ngộ ấy, bậc thi sĩ đàn anh hân hoan viết vào sổ tay tặng tôi mấy câu thơ chữ Hán và đoạn lục bát:

- “Bỗng nhiên tao ngộ bao giờ?

Quãng Nam cố quận bây giờ là đây

Nghiêng vai chúc tụng thiên tài

Trăm năm dâu bể một ngày phục sinh!”

Viết xong câu thơ thứ tư trên, “trung niên thi sĩ” giựt mình nói nhỏ:“phục sinh”! thôi thì “tái sinh” vậy!

Rồi thế đấy! Với bao dòng nước chảy qua cầu… và sau này đây “trung niên thi sĩ” của chúng ta sẽ nằm yên trong lòng đất lạnh, nằm an nghỉ để đợi ngày tái sinh (phục sinh) cho chính mình và trong ký ức của những người mến mộ cuộc đời và sự nghiệp văn chương trác tuyệt có một không hai của thi đàn nước Việt. Người có một cái tên bất tuyệt “Bùi Giàng Búi là người ngụ xóm gà Gia Định” như thi sĩ đã tự khai sinh.

Với “trung niên thi sĩ”, ai cũng nghĩ ằng nhà thơ đã đi đúng nghiệp văn chương, nên ông chẳng bao giờ màng tiếng thị phi. Lúc nào “trung niên thi sĩ” cũng là người trượng phu, vẫn lạc quan yêu đời như phong cách của một thiền sư thi sĩ luôn thấy được bản lai diện mục mình. Với ông, dù lúc đáng bi lụy mà chẳng bao giờ vướng lụy ngay cả khi nhà thơ đang nghĩ về thế giới… bên kia, như ông viết:

“Và mai sau tôi xuống suối vàng vẫn mong rằng các vị… sẽ ban ân huệ mưa móc xum xuê trên nấm mồ mọc cỏ những giọt sương trần gian sẽ giỏ hằng ngày xuống đáy huyệt cô đơn”

Chẳng phải như ông, chúng tôi vốn là những người mang nhiều hệ lụy của một kiếp nhân sinh trần tục nên chân thành khóc thi sĩ:

“Đời như hiu quạnh nghĩa trang không

Sự thể vùi trong nấm cỏ đồng]

Tro giấy bay thành hồ điệp trắng

Lệ rơi máu đỏ đỗ quyên hồng”

Trước khi bái tiễn Bùi tiên sinh về cõi thọ, xin mượn câu thơ ông huơ bút năm nào tặng tôi mà tôi mường tượng rằng đây là lời Bùi Giàng Búi đại ca tự tặng mình thì có lẽ đúng hơn:

“Phương cảo phù du vân cẩm đoạn

Tòng giao sất luyện tả thu quang”



Như văn chương tuyệt thế của ông

Xin bái biệt “trung niên thi sĩ”

Ngã Ba Ông Tạ - tiết mưa dầm

Gia Định 11-10-1998)

NGUYỄN Q. THẮNG



Nhớ người Phụng Hiến

Ngày sẽ hết tôi sẽ không trở lại

Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu

Sẽ đi từ chốn quay về

Hồn du mục, cỏ Nhà Quê ngậm ngùi

Lời sương ý tuyết chia đôi

Đất ngâm ngấm lạnh bên trời mây bay



Sẽ đi từ cuối chân ngày

Từ đêm vô lượng ngón tay vô ngần

Mưa Nguồn, Chớp Bể hòa âm

Ngàn Thu Rớt Hột nẫy nầm chiêm bao



Sẽ đi từ một điệu chào

Khóc cười náo nhiệt, nháo nhào tử sinh

Bài thơ muối mặn rùng mình

Gừng cay úp mặt tận tình tri âm



Sẽ đi từ một chỗ nằm

Đá vang tiếng ngựa, gió cầm tin loa

Rưng rưng vũ trụ sáng lòa

Hài nhi khép mặt mưa qua ngàn trùng



7/10/1998

NGUYỄN LƯƠNG VỴ

Kính viếng



Những dòng thư ngắn

Trong kỷ niệm với bùi quân ^



Một ngày lập đông, năm Đinh Mão (1987), thi sĩ Bùi Giáng đến quán cà phê đường Bà Lê Chân, Tân Định để gặp và “khoe” với Huy Tưởng một “lá thư” bằng phiên âm chữ Hán của một tiên sinh tự xưng là đang ở tận một nơi xa gọi là “viễn phố”, xa hơn cả nửa vòng trái đất, và gọi Bùi trung niên thi sĩ là cháu. Bức thư vỏn vẹn có mấy dòng nhưng đã bày tỏ được mối tương hệ rất sâu đậm cùng sự thấu cảm nhau một cách tinh tế đầy ẩn mật đối với một thiên tài không sao định nghĩa được (génie indéfinissable) bằng thứ ngôn ngữ tưởng như là “vu vơ”. Nói năng bông lơn mà lại hàm dưỡng một công phu bề thế, bận bịu vô song giữa các vạn vật nhất thể ở khởi nguyên chưa phân ly thì còn hàm hổn nhưng tràn đầy sức sống, như có kẻ luôn tự vấn: làm sao nối lại non xanh và biển rộng giữa cát và bờ? Làm sao chuẩn bị cho một cuộc đối thoại tái hợp nhất thiết phải có giữa Đông và Tây? Làm sao bắt lại nhịp cầu tương giao giữa Thi Ca và Tư Tưởng, hai lãnh vực hoạt động theo quy luật riêng, cách nhau cả vực thẳm, mà lại có mối quan hệ tàng ẩn thắm thiết ở cội nguồn?

Nay bất chợt tìm thấy trong mớ kỷ niệm hỗn mang mà đầy hứng khởi, những dòng khơi mở ngắn ngủi vô cùng thi vị ấy, không ngăn nỗi phải nhắm mắt “liều lĩnh một phen” chuyển và phóng dịch cho thỏa cơn mộ chữ.

Xin rất biết ơn những ai - đó, như trúc có lòng, nở cho nụ cười hoan hỉ.

(HUY TƯỞNG)

Viễn phố, 27/11/87

Bùi Tần Thân lão điệt nhã giám!

Nhĩ ký ngã vô lượng thi + thơ, tổng thị tiếu đề diệc vận, nùng đạm tương nghi…

Độc thậm khoái hoạt, như du du tại Hoạn hỉ địa chi gian

Ngô viên tự hữu, vô tâm chi trúc, tự nhĩ lai thời, kiêm hữu trường lử chi nhân, khả phát nhất tiếu, nhiên nhi vu vơ chi vũ mạc đình phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh, phất vi dã!

Ngã kim tại Viễn phố, sa mạc hồi khan, trùng trùng tâm cảnh. Triêu chỉ kiến thiền vu, mộ hồ sơn ứng mộng.

Hàm tình vô phiến, ký nhĩ Hô-đơ-gây* phiêu bồng di ảnh cộng sổ hàng ẩn ngữ ninh vi phỉ thuý lục ngạn hành từ.

(Nguyên tác bằng chữ Hán – bút tự của BG – Rất tiếc những đoạn trích trong Sổ Tang này được chuyển từ trong nước qua đường email, người gửi không có máy scan, nên buộc phải âm ra chữ Việt)

DỊCH:

Viễn phố, 27/11/87

Gửi Bùi lão điệt vô cùng thân thiết!

Cháu gửi ta thi thơ vô lượng, khóc cười ứng hợp, đậm nhạt hài hòa. Đọc rất hứng thú, như lảng đãng trong vùng hoan hỉ.

Vườn ta như trúc có lòng, từ khi cháu đến, nay có người dặm dà rong ruổi, nở được một đóa cười. Nhưng mưa vu vơ chẳng tạnh, phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh không làm đâu!

Nay ta đang ở bến xa, trông về sa mạc, tâm cảnh chất chồng. Sáng chỉ thấy Thiền Vu, chiều chiêm bao bờ núi. Tình chan chứa lặng thinh không nói một lời!

Gởi cháu di ảnh “Heidegei”* phiêu bồng, cùng bao la ẩn ngữ thà làm phim phỉ thuý thơ thẩn bờ xanh.

____________________________

*Hơ-đơ-gây (nói lái của Martin Hiedegger)



Vĩnh biệt anh Bùi Giáng



Bùi huynh! Trung Phước đợi anh về

Đồi cũ mong người thuở “giữ dê”

Giọt giọt “mưa nguồn” rơi chằng ngớt

Sài Gòn xa vọng tiếng mưa quê!



TƯỜNG LINH

(Trung Phước)





Thấp cao nào thuộc về chân cẳng

Có trèo lên mấy chục tầng lầu

Và nằm phục xuống như con rắn

Núi đời thành thị vẫn nương dâu



Thấp cao vậy chắc là trồi sụt

Trồi quỉ ma và sụt thánh hiền

Cái gì ở ranh cao thấp

Một ÔNG BÙI giáng giữa thanh thiên!



BÙI CHÍ VINH





“Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”

Đã chơi thì mặc xác luân hồi



PHẠM THIÊN THƯ







Hơn bảy mươi năm lạc cõi đời

Chỉ là chớp mắt một trò chơi

Có không không có ông hằng rõ

Sinh tử hề chi chuyện nhỏ thôi



NGUYỄN ĐĂNG TRÌNH



Thoắt nhanh một trận say dài

Tóc bay trắng thác đổ ngoài hư không



Vĩnh biệt anh

NGUYỄN THỤY KHA





Con kính viếng hương hồn của thầy

“Cổ kim hậu sự thiên nan vấn

Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không” (BG)

Con, người học trò thơ của thầy



TRẦN TUẤN KIỆT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét